Thứ Năm, 23 tháng 5, 2013

Sàm yêu.

Ngoài trời mưa khuya bóng đêm phủ dầy đặc. Tiếng mưa cứ rơi gõ nhịp đều trên mái ngói. Xa xa hoài vọng tiếng côn trùng nỉ non,…Đêm nay trời trở lạnh lạ lùng. Cái lạnh phương bắc đến từ cõi hư vô, từ sự cô đơn như dấu hiệu báo trước buổi chia ly của mối tình đầu vốn đầy đam mê nhưng trắc trở giữa tôi và nàng. Nàng không đẹp như giấc mơ của tôi thời “dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa”, nhưng nàng đầy đam mê và quyến rũ lạ kỳ. Tôi yêu nàng vì bởi nàng là người tình đầu tiên ngõ lời yêu khi tôi lên tiếng. Tôi yêu nàng vì nàng mụ mị trong từng nụ hôn đắm say kỳ diệu. Nụ hôn đĩ thỏa đẫm trong dục vọng đầu đời. Tất cả với nàng và tôi chỉ có thế.
Chợt từ cái thinh không tĩnh mịch của đêm đen huyền diệu ấy dậy lên tiếng sấm rền. Tiếng sấm như tiếng thét từ trái tim của nàng. Trái tim yêu đây nghiệt ngã và định kiến ngục tù. Bất chợt nàng ôm chặt tôi vào lòng thổn thức. Rồi nàng lên tiếng:
-Anh có yêu em không? Bằng tất cả sự cuồng nhiệt của dục tính đàn ông và lòng trung thành vô điều kiện trong cõi mê. Tôi đê mê đáp lời nàng:
-Em là người tình đầu trong đời anh. Trong trái tim phiền muộn, héo khô của thằng nhóc trẻ, tình em như thể một suối nguồn vĩnh hằng làm tươi tắn vùng đất sa mạc linh hồn anh. Anh yêu em còn hơn bất cứ cái gì trên cõi ô trọc này! Yêu hơn cả cái mạng của mình.
Tiếp nối dông bão của cơn cuồng yêu cho câu đáp trả mang màu sắc liêu trái của tôi là hàng loạt nụ hôn dục vọng đàn bà tưới đẫm thân người tôi. Nàng ướm đôi môi diễm lệ lên mắt tôi, lên môi tôi,lên trán tôi và bất cứ đâu có thể trên thân tôi đầy mê đắm lửa tam muội.
Dường như chưa thỏa mãn với câu trả lời của thằng ngu là tôi đó. Nàng lại đều đều vang lên điệp khúc cầu hồn trói buộc linh hồn tôi vào trong tham vọng yêu đương của nàng. Anh có yêu em nhiều không, anh có chắc rằng anh yêu em nhiều hơn hết thảy mọi thứ xấu xa và đẹp nhất trên cõi trần này không?
Bằng hỗn mang kỳ lạ của ý thức chết lịm trong hồ yêu. Tôi như con rối chết vì hạnh phúc ảo tưởng của tình yêu đáp trả nàng:
-Thế em còn thấy anh đã còn có chút lý trí nào khác hiện hữu khi đã ngã vào vòng tay của em chưa? Cái vòng tay vừa nhẹ nhưng lại có một sức mạnh vô hình trói buộc còn hơn cả cái vòng kim cô chết tiệt trên đầu gã Tôn Ngộ Không!
Đêm mưa thu rả rích tối nay có lẽ là đêm mưa đầu tiên và cuối cùng dài nhất trong đời tôi và nàng, bởi hàng loạt câu hỏi dồn dập rằng tôi có yêu nàng không. Với nàng câu hỏi ấy có sức cuốn hút và đam mê kỳ lạ. Nó vừa là vật bảo chứng cho tình yêu của nàng vừa để bảo đảm rằng tình yêu tôi dành cho nàng chỉ là một tình yêu không lý trí và được bảo hành bằng bạo lực của ngục tù dục vọng, cứ vang nhịp hòa cùng tiếng gõ hạt mưa trên mái ngói. Tạo thành hình âm thanh của tiếng khóc yếu đuối lịm dần của đứa bé chào đời bất hạnh bị ai đó bỏ rơi ngoài ngõ vắng!?
Sau khi đã thỏa mãn dục vọng thể xác cùng nàng trong mê man bất tận. Bất chợt nàng thủ thỉ một câu chuyện điển tích về lòng hiếu thảo của người xưa. Chuyện kể rằng:
Trong thập nhị tứ hiếu Tàu có câu chuyện lưu truyền “Nếm phân lo âu”. Chuyện xưa kể rằng trong thời nam bắc triều, Nam Tề có một người con chí hiếu tên là Kiềm Lâu. Ông được bổ nhiệm làm tri phủ đại nhân và tới huyện nha nhậm chức vừa mới được mười hôm, bỗng nhiên thấy trong lòng đau nhói, tâm thần bàng hoàng. Ông linh cảm ở nhà ắt có việc gì xảy ra, nên liền xin từ chức để trở về thăm cha mẹ. Về đến nhà, mới hay cha già bị đau nặng đã hai ngày rồi. Kiềm Lâu nghe thầy thuốc nói là: “Muốn biết bệnh nặng hay nhẹ, chỉ cần nếm phân của bệnh nhân, nếu như đắng thì dễ trị.” Ông không ngần ngại, liền nếm thử phân của cha thì thấy có vị ngọt, lòng lo lắng vô cùng, đứng ngồi không yên. Mỗi khi đêm đến, ông hướng về sao Bắc Đẩu mà khấn nguyện xin chết thay. Về sau ông nằm mơ thấy có người cầm một thẻ vàng với mấy dòng chữ: “Sắc trời ban bình an.” Quả nhiên ngày hôm sau, cha ông được lành bệnh.
Sau khi nghe nàng kể xong câu chuyện, tôi mới lên tiếng hỏi nàng:
-Chuyện yêu đương trai gái tụi mình, mắc mớ gì em kể chuyện thập nhị tứ hiếu vào đây?
Như thể chờ cho tôi lên tiếng thắc mắc với câu hỏi ngu ngốc trong câu chuyện đầy hàm ý nghiệt ngã của nàng. Bất chợt nàng vùng dậy, ngồi lõa thể đàn bà trước mắt tôi. Nàng nhìn tôi bằng ánh nhìn lạnh lẽo xa vời. Cái nhìn như thấu đáo sự hèn hạ và đầy lo âu trong tôi, tợ như cái gã Kiềm Lâu thổ tả nào đó đã từng dại dột nghe gã lang băm vườn nếm phân của cha hắn. Mà nghĩ cũng lạ và vô lý, tay Kiềm Lâu hồi nào giờ có nếm cứt người mô mà biết phân đắng, phân ngọt? Rõ là lẩn thẩn ba cái chuyện “Tàu” lao.
-Anh yêu à, ở đời không có lửa thì làm sao có khói phải không anh? Nàng bất chợt lên tiếng. Câu chuyện nếm phân của Kiềm Lâu là xuất từ tình yêu có phải vậy không anh? Chỉ có tình yêu thương mãnh liệt, một tình yêu không vụ lợi và phục tùng vô điều kiện,…nên Kiềm Lâu mới nghe lời thầy lang can đảm nếm phân cha của mình!
Nghe nàng nói đến đây, tôi lờ mờ nhận ra hàm ý đắng cay câu chuyện quái gở mà nàng vừa kể! Rồi nàng tiếp: Chỉ có một tình yêu chân thành con người mới dám vượt những trở ngại tưởng chừng không thể thành điều có thể chàng ạ!
Bất chợt nàng nhìn thẳng váo mắt tôi, đôi mắt nàng mới dễ sợ làm sao! Anh có yêu em thật lòng như những gì anh đã nói không? Tôi đáp, đêm nay đã không biết lần thứ mấy em hỏi anh câu này. Và lần nào câu trả lời ra sao em điều biết mà. Vì sao em cứ lập lại câu hỏi mà em luôn biết câu trả lời chân thành từ phía anh!
Sau khi nhìn khắp lượt cái thằng rúm ró là người tôi, nàng từ tốn lên tiếng. Em biết mình không phải là con người hoàn hảo trong mắt anh, Em vẫn còn những điều tồi tệ trong mắt anh. Nhưng vì lòng chân thành, sự đam mê dục vọng và tình yêu không lý trí,… anh đã yêu em tất thảy mọi thứ. Em chỉ băn khoăn, liệu anh đã thực sự yêu hết những điều xấu xa tồi tệ của em không? Anh này:
-Kiềm lâu quả thật là con người cao cả và không lý trí. Ông ấy đã không ngần ngại nếm phấn cha mình chỉ để vọng tưởng rằng qua đó ông ấy sẽ giúp lão thầy lang định bệnh cho cha mình. Em chưa từng phải bệnh như cha của
Kiềm Lâu. Nhưng điều em thật sự muốn thấy là anh có dám….nếm phân của em như cái lão Kiềm Lâu đó không? Nếu anh thât sự yêu em nhiều như anh “nói”, nhiều như đam mê của anh,…Anh phải chứng tỏ lòng thành và phi lý trí của mình qua cách nếm phân của em?

Mặc cho nhiều lần giải thích, phân tích mọi lý lẽ đúng sai của câu chuyện phi lý và thiếu căn cứ khoa học trên. Nàng vẫn cương quyết rằng chỉ có can đảm nếm phân thì tôi mới thể hiện được lòng thủy chung và tình yêu của mình.

Cuối cùng bằng tất cả sự can đảm, tôi gào lên. Cái thứ tình yêu phục tùng vô lý ấy chỉ có lũ chó may ra mới đủ bản năng nếm phân và yêu phân của em mà thôi.

Từ dạo ấy tôi và nàng chia tay. Thế chỗ vào tình yêu nồng nàn và đam mê của tôi ngày xưa bây giờ nhà nàng là một lũ chó. Chúng ngày ngày nếm và xơi cái thứ mà nàng bắt tôi nếm. Duy có điều lũ chó vì nếm và xơi thường xuyên thứ đó, nên hơi thở và tiếng sủa của chúng cũng nặng mùi chẳng kém cái thứ nàng thải ra.

Thứ Hai, 13 tháng 5, 2013

Luật nhân quả hiện đại.

Một chiều thu quạnh quẻ, nơi một ngọn đồi trông ra thung lũng Ngàn Mây. Ngọn đồi nơi tọa lạc một ngôi chùa cũ kỹ cùng tên buồn hiu quạnh. Bổng chiều nay vang tiềng chuông báo hiệu buổi thuyết pháp kỳ lạ. Thường ngày như mọi ngày vị sư trụ trì chùa già khọm chỉ thuyết pháp cho đám nông dân quanh làng. Nhưng hôm nay ngài có buổi thuyết pháp cho đám phật tử cao cấp. Điều kỳ lạ là chỉ có đám quan tai to mặt lớn, cùng với các nường phu nhơn sang trọng bóng lẫy thơm lừng cũng của các cụ nột, dự thính buổi thuyết pháp này. Một vài bà lão nông quê mùa muốn đi cầu kinh cho buổi tối cũng bị từ chối được phép tham dự.
Buổi thuyết pháp chiều mưa hôm nay của sư cụ bàn về thuyết nhân quả nhà phật. Cái thứ thuyết chết tiệt mà đám nông dân vô cùng kính cẩn khi ngộ thuyết. Thay vì làm cái chuyện bẻ trộm quả bí ngô thì đố ai dám vì quả báo mất con bò chẳng hạn. Cái thuyết nớ sư cụ cũng giảng giải vô cùng đơn sơ. Nó tợ như các con làm chuyện bậy bạ bằng vay nặng lãi khủng của ngân hàng nhà nước trước đây hay gái giang hồ vay cho son phấn, tiêu vặt của đám giang hồ ma cô! Được cái lũ nông dân nghèo nghe chuyện này ai cũng vả mồ hôi mẹ mồ hôi con tuôg tuông ào ạt, mới khiếp làm sao!?
Vì là các quan to đùng, đảm các chức quan trọng lo cho đám thảo dân hiền lam lũ, nên bài giảng của sư cụ về nhân quả lại liên quan đến lão quan thuế vụ. Sau khi nhìn khắp qua một lượt các quan đầu hói, mặt mày bóng nhảy vì ẩm thực bổng lộc của dân. Sư cụ vội nhìn xuống chiếc áo nâu sòng vàng ệch của mình loang lổ vệt mồ hôi thời gian, Lòng sư cụ có chút nôn nao bối rối vì cái sự khiếm nhã của mình! Ngài tằng hắn với giọng đều đều nhập môn bài giảng.
"Chuyện xưa kể rằng có một vị quan thuế vụ nọ vốn tính tình tham lam độc ác. Hắn luôn tìm đủ mọi cách để lấy được nhiều tiền bạc từ những người nông dân đến nộp thuế cho hắn… Một hôm có một bác nông dân đến xin khất hắn sang lần khác nộp tiền vì trong nhà bác không còn đến một hột gạo mà ăn. Bác năn nỉ đến gẫy lưỡi hắn mới chấp nhận.
Bác nông dân ra về nhưng vô ý đánh rơi một đồng tiền vàng, nhiều gấp bao nhiêu lần số tiền bác phải nộp thuế. Hắn nhìn thấy bèn lấy chân dẫm lên và tự nhủ:“Cho mày chết, có tiền không chịu nộp thì ông lấy hết”. Bác nông dân ra khỏi cửa thấy mất tiền liền quay lại hỏi. Hắn nói: “Mày mà cũng có tiền để rơi ở cửa quan à? Thôi xéo đi cho khuất mắt”. Bác nông dân cố nài nỉ: “Đó là tiền người ta nhờ tôi mua thuốc, ông có nhặt được làm ơn cho tôi xin”. “Ta mà thèm sờ vào đồng tiền bẩn thỉu của nhà ngươi à? Thôi cút ngay”. Bác nông dân không biết làm thế nào đành lủi thủi ra về…

Trời lũ lụt mất ba hôm, tên thu thuế không về nhà được đành phải ở lại nơi làm việc. Khi trời quang mây tạnh, hắn quay về nhà và thấy vợ hốc hác, đầu bù tóc rối. Nhà cửa lung tung, lộn xộn. Hắn rất ngạc nhiên và hỏi vợ: “Con đâu, mình?”. Vợ hắn trả lời: “Con chết rồi”. Hắn hét lên: “Chết rồi, tại sao nó chết, ôi đứa con trai bé bỏng yêu quý của ta, tại sao nó chết?”. Vợ hắn đau khổ trả lời: “Trước khi bão lũ, con mình bị ốm, em đã nhờ bác hàng xóm đi mua thuốc hộ. Em biết bác ấy không ưa anh nên dặn với vợ bác ấy đừng bảo là em nhờ. Nhưng không hiểu sao, bác ấy bảo rằng, bác ấy đánh mất tiền ở chỗ làm việc của anh. Sau đó bão lũ quá, em không thể mua thuốc cho con, nó ốm nặng quá và đã chết…”
Hắn đứng như trời trồng, mặt xanh mét không nói được câu nào…
Nghe xong câu chuyện nhân quả động trời ấy. Các quan mặt mày biến sắc. Thần thái lão nào trông cũng nhợt nhạt, đầy lo lắng ưu tư. Riêng các nường phu nhơn của các quan lo lắng bội phần,...
Trong lòng các lão quan ông và quan bà dự buổi thính giảng ấy đều có chung một nỗi sợ về luật nhân quả. Tự chiếu rọi thấy bàn tay gây nhân của mình tay nào cũng nhúng chàm quá sâu.
Đợi cho đám thính giả bình tâm sư cụ mới lên tiếng:
-Luật nhân quả của nhà phật luôn bình đẳng với mọi người. Bất kỳ ai, dù là anh nông dân ở đáy xã hội hay các vị quan chức tai to mặt nhớn. Tuy chỉ có điều là ai biết ăn năn, hối cải sớm trong lúc gây ra nhân thì sẽ được chiếu cố xem xét của Bồ Tát. Thậm chí nếu biết cách có thể hóa giải được tất thảy mọi tội lỗi!?
Nghe xong câu hóa giải gợi mở của sư cụ, các quan trong lòng khấp khởi hy vọng. Ai cũng nhao nhao tranh nói:
-Chúng con đây quả thật thưa thầy cũng gây lắm nhân tốt xấu lẫn lộn. Nhân tốt đếm mãi chẳng hết bàn tay. Còn nhân xấu e rằng đếm cả đời cũng chả hết. Chi bằng sư cụ chỉ cho một liệu pháp hành tâm mà hóa giải cho lũ chúng con đây!?
Hớp vội một ngụm nụ vối ủ đã mười ngày chua lét, ngài thủng thẳng đáp: "Cái tay quan thuế trên sở dĩ "hưởng" quả liền tay là vì trước giờ chỉ biết ăn mà không ị! Các con đây chắc cũng rứa. Chi bằng chia sẻ lại cửa thiền chút của rơi của rớt, để ta liệu mà tìm cách nói hộ cho với đức từ bi! Ngày xưa Phật từ bỏ chốn giàu sang để đi tìm giác ngộ và giải thoát. Giải thoát phải chăng là ước mơ của con người tìm một hạnh phúc vững bền thoát khỏi mọi ưu phiền. Chính vì lẽ đó chốn thiền môn càng to, rộng và hoành tráng chừng nào thì phật càng ưu ái ngụ cư.
Nay ta khuyên các con mở rộng hầu bao, mời thầy, mướn thợ. xem phong thủy, mời các vị cao tăng khắp chốn về xây chùa cho thiệt hoành tráng vào,...Chỉ có thế mới hy vọng luật nhân quả không hiển linh đời đời trong gia tộc các con!
Từ dạo ấy người ta thấy nơi nơi xây chùa. từ Đại Tự Nam chà bá, Suối Tiên Tự to oạch, Bái Đính linh thiêng,.... Miền tây thì có chùa Trầm kỳ nam, dựng hình dựng tượng công đức khắp nơi. Quan to thì làm lễ rướt ngọc phật hoành tráng ở hải ngoại về, xây chùa ngoài hải đảo xa xăm. Chốn quan trường thì thành phủ, thành miếu, thành nơi thờ tự. Phật giáo hưng thịnh chưa từng thấy trong thời góp của. Các quan thành tâm cầu tự, tụng niệm. Các ngày lễ thiêng. chùa linh hiển khói mịt ngày đêm, cúng bái rộn ràng, chiêng chập ầm ĩ,...
Quả thật cũng từ dạo ấy các quan ra sức mà gieo nhân xấu cũng chẳng phải lo hưởng quá xấu. Chỉ có điều lạ là thay vì luật nhân quả ứng với người gieo nhân. Chẳng biết sư cụ ở chùa thung lũng Ngàn Mây vái kiểu chi mà các quan càng gieo nhân xấu bao nhiêu đám dân đen càng "hưởng" quả xấu nhiều bấy nhiêu tương ứng!
Sau cái đận thuyết pháp cho đám quan lại ấy. Sự cụ thôi không còn thuyết pháp cho đám nông dân nghèo nữa. Ngài cũng thôi trụ trì cái chùa Ngàn Mây thổ tả thuở hàn vi. Thay vào đó ngài được phong thánh, trở thành sư quan. Công việc của ngài giờ bận rộn lắm nên ngài phải dùng xe đời mới. Áo nâu sòng xưa giờ là lụa Tân Cương, trang sức của ngài cũng xứng tầm với công đức ngài đã làm cho quan. Phòng nhập thiền của ngài giờ đây rì rì phả hơi lạnh mùa gió lào và nhả chút ấm bát nhã mùa đông.
Ngoài kinh kệ phật pháp, ngài cũng tụng niệm thêm đạo đức tiền nhân. Cái nước vối ủ thiu thối ngày trước được thay bằng nước nhân sâm, tổ yến, nhờ thế mà các ngài mới đủ sức khỏe thờ phụng và giác ngộ cùng lúc hai con đường, con đường phật pháp và con đường vô đạo pháp!
Đắc đạo cùng lúc hai con đường quả là chuyện xưa nay hiếm của các sư quan đỏng đảnh! Thiên đường giác ngộ nào cũng to. Mai này có nhập tịch vào cõi nát bàn, tha hồ mà hưởng thụ hạnh phúc đời đời!