Thứ Năm, 4 tháng 12, 2014

Lại pha trộn xăng A92 với ethanol!

Theo lộ trình của "chính phủ", trong năm 2015 tỉ lệ pha trộn ethanol-cồn vào trong xăng A92-nhiên liệu hoá thạch sẽ là 5%, thành xăng E5. Tới năm 2020 thì tỉ lệ này sẽ tăng lên 10%. Để chuẩn bị cho lộ trình đó, đầu tháng 12/2014 các thành phố lớn trong cả nước sẽ triển khai đồng loạt các điểm bán xăng "sinh học". Cụ thể là thành phố HCM sẽ triển khai đồng loạt tại 58 điểm bán xăng E5 trong khắp 24 quận huyện "để tạo thuận lợi cho người tiêu thụ" mua được xăng giá rẻ? Theo dự kiến thì xăng này sẽ rẻ hơn xăng A92 500đ/lít?

Trên thế giới nhiên liệu sinh học( Biofuel) được làm từ bắp, khoai mì(sắn), mùn cưa, đậu tương, rơm rạ, dầu dừa, mỡ động vật như mỡ cá, mỡ heo, bò,...Việt Nam hiện có năm nhà máy sản xuất cồn Ethanol, phần lớn do tập đoàn Dầu Khí quốc Gia đầu tư. Công suất khoảng 500 triệu lít Ethanol/ năm.
Nguyên liệu để các nhà máy này tạo ra cồn Ethanol đều từ khoai mì.

Các nhà máy bao gồm Nhà máy ethanol Bình Phước sử dụng công nghệ Ấn Độ, Nhà máy Ethanol Dung Quất công nghệ Mỹ. Nhà máy Ethanol Phú Thọ công nghệ Mỹ. Cả ba nhà máy trên dều do tổng công ty dầu khí làm chủ đầu tư (PVoil), đều có công suất là 100 ngàn m3 Ethanol, tương đương 125 triệu lít/năm. Ngoài ra còn nhà máy Ethanol Đại Tân, Tùng Lâm, có công suất lần lượt là 100 ngàn m3 và 60 ngàn m3/năm, sử dụng công nghệ Trung Quốc.

Đối với một nhà máy có công suất 100 ngàn m3 ethanol/năm, hàng năm sẽ tiêu thụ 1 triệu tấn khoai mì khô. Để có được 1 tấn khoai mì khô thì phải có 3 tấn khoai mì tươi. Năng suất bình quân đối với mì tại việt nam khoảng 25-30 tấn củ tươi/ ha. Để có 1 triệu tấn khoai mì khô thì phải có diện tích đất trồng khoai mì là 100 ngàn ha. Như vậy để đảm bảo nguyên liệu cho cả 5 nhà máy hoạt động hết công suất, diện tích đất dành cho trồng khoai mì sẽ là 500 ngàn ha?

Việc sử dụng khoai mì để làm xăng sinh học sẽ cạnh tranh đất trồng cây lương thực. Điều cũng cần lưu ý là đất trồng khoai mì sẽ rất nhanh bạc màu và nghèo dinh dưỡng. Hiện nay trên thế giới, các nước có nền nông nghiệp phát triển hầu như không khuyến khích trồng sắn, thậm chí bị hạn chế và cấm trồng vì làm nghèo đất, hệ số lợi nhuận so với trồng các nông sản khác rất thấp.

Trung Quốc và Thailand trước đây là hai quốc gia có sản lượng sắn lớn nhất thế giới. Nay chính phủ các nước này đã hạn chế nông dân nước họ trồng sắn vì dễ làm đất bạc màu? Có nhiều nghiên cứu chỉ ra việc trồng sắn sẽ dẫn đến làm thay đổi tính chất lý hoá của đất trồng trọt. Về vật lý(cơ học đất)người ta nhận thấy việc trồng sắn sau bốn năm sẽ dẫn đến đất dễ bị xói mòn hơn do cấu trúc liên kết đất bị phá vỡ, khả năng giữ nước kém hơn. Có mối liên hệ sa mạc hoá đất do canh tác sắn? Thổ nhưỡng đất bị suy kiệt vì phần lớn sắn sau thu hoạch hầu như chẳng để lại gì cho đất ngoài mớ lá ít ỏi của nó.

Một điều không thể không nói đến là trồng sắn một thời gian dài có nguy cơ tiêu diệt các vi sinh vật, các loài giun đất có ích cho đất. Nguyên nhân có thể là hàm lượng đáng kể HCN trong thân lá và củ, rễ,..tồn dư trong đất sau canh tác sản sinh ra Hydro cyanic acid? Đây là một dạng acid cực độc. Lá sắn có hàm lương HCN khá cao, tuỳ theo loài. Dao động từ 80=110mg/kg lá tươi ở sắn ngọt. Sắn đắng hàm lượng HCN từ 160-240 mg/kg lá khoai mì tươi . Củ tươi từ 60-160mg/ kg. Liều gây chết ở người là 50mg/50 kg thể trọng. Tuy nhiên yếu tố acid tồn dư trong đất chưa được điều tra và nghiên cứu thấu đáo?

Người ta cũng ghi nhận, sau bốn năm canh tác sắn liên tục thì năng suất sẽ giảm hơn 50% từ 19 tấn/ha còn 7 tấn/ha ? Một thực tế cũng ghi nhận được là trong ruộng sắn hầu như ít thấy các loài thực vật khác cùng sinh trưởng cạnh tranh dinh dưỡng và nước!? Ngoài ra cũng có ghi nhận đất trồng sắn rất có ít nấm dại phát triển dù đã bỏ hoang vài năm!?

Theo một tài liệu của FAO-Tổ chức Lương Nông Thế giới cũng có đề cập về vấn đề trên. Tuy nhiên chỉ là các nghiên cứu sơ sài của một vài tác giả từ VN! Chưa đưa ra các ảnh hưởng tiêu cực của ngành trồng sắn trên đất trồng. Phần, có lẽ các nghiên cứu này được tài trợ của chính phủ, phục vụ cho mục đích phát triển ngành trồng sắn ở VN để làm nguyên liệu cho xuất khẩu sang TQ, và nguyên liệu cho các nhà máy sản xuất Ethanol của các nhóm lợi ích ở VN !? TQ hiện là nhà tiêu thụ sắn lát chính yếu của VN, chiếm khoảng 90% lượng sắn khô xuất khẩu!

Từ những phân tích trên, cho thấy việc VN lựa chọn cộng nghệ sản xuất nhiên liệu sinh học từ sắn trồng là một lựa chọ thiếu thông minh và về lâu về dài còn để lại nhiều di hại cho đất trồng trọt. Điều đó có nghĩa là chỉ với năm nhà máy hiện tại cần khoảng 500 ngàn ha để trồng sắn. Nhưng về lâu dài khi chất lượng đất trồng suy thoái, năng suất sinh học sẽ giảm đáng kể. Do đó để đảm bảo sản lượng cung cấp hằng năm cho các nhà máy này sẽ đòi hỏi gia tăng diện tích canh tác.

Mở rộng diện tích trồng sắn sẽ kéo theo phá rừng, tài nguyên nước ngầm bị ảnh hưởng nghiêm trọng, phá huỷ đa dạng sinh học,... 

Việc sản xuất xăng sinh học sử dụng nông sản chính, cạnh tranh đất trồng cây lương thực là một lựa chọn tồi. Với một nền khoa học ngày càng tiến bộ thì xăng sinh học đi bằng con đường sử dụng nông sản sẽ để lại nhiều hệ luỵ rất lớn, thậm chí về tương lai sẽ phá sản? Trước đây nhân loại chỉ quan tâm khai thác dầu để phục vụ nhu cầu năng lượng ngày càng tăng của thế giới. Nay Mỹ đã bắt đầu làm chủ công nghệ khai thác dầu từ đá phiến (Oil shale). Theo đánh giá năm 2005, tài nguyên đá phiến dầu trên toàn thế giới đạt khoảng 411 tỷ tấn - đủ để sản xuất 2,8 đến 3,3 ngàn tỷ thùng (520 km³) dầu. Trữ lượng này hơn hẳn trữ lượng dầu truyền thống trên toàn thế giới, ước tính khoảng 1,317 ngàn tỷ thùng (209,4 km³) dầu theo số liệu ngày 1 tháng 1 năm 2007. Các mỏ dầu đá phiến lớn nhất thế giới tập trung ở Hoa Kỳ trong hệ trầm tích sông Green, khoảng 70% các mỏ này nằm dưới đất được quản lý bởi chính phủ liên bang Hoa Kỳ. Hoa kỳ chiếm khoảng 62 % sản lượng toàn thế giới oil shale (Wikipedia)

Rõ ràng đây sẽ là tín hiệu không vui cho các nhà sản xuất dầu mỏ truyền thống của OPEC. Việc Hoa Kỳ làm chủ cônng nghệ oil shale sẽ đẩy giá dầu ngày càng đi xuống. Một phần Mỹ là quốc gia nhập dầu mỏ chính của OPEC. Hiện giá dầu trên thế giới có khuynh hướng ngày càng giảm sâu. Có khả năng chỉ vào khoảng 30-40 usd/ thùng thì việc sản xuất Ethanol từ nông sản chính sẽ là con đường ngõ cụt tất yếu về tương lai?

Chỉ ở một số nước giàu như Mỹ là dùng bắp để sản xuất Ethanol. Hoặc các quốc gia tận dụng phế phải trong sản xuất nông nghiệp, công nghiệp để sản xuất Ethanol, cụ thể như Brazil, Thái Lan,... tận dụng mật rỉ đường để sản xuất Ethanol.

Phần lớn các nước nghèo, thu nhập thấp đến trung bình hầu như ít hay không đầu tư sản xuất nhiên liệu sinh học(NLSH) trực tiếp từ sản phẩm trồng trọt. Bởi vì sản phẩm làm ra sẽ có giá thành rất cao, ảnh hưởng đến an ninh lương thực, chăn nuôi,...Đó là chưa nói đến các nhà máy xăng sinh học sử dụng sắn để sản xuất Ethanol sẽ phải sử dụng một lượng nước ngọt khổng lồ. Quá trình sản xuất làm ô nhiễm môi trường khá nặng nề. Do đó xử lý ô nhiễm môi trường rất tốn kém,...Hiện tại các nhà máy sản xuất Ethanol đang bị dân kêu rất nhiều vì vấn đề ô nhiễm!?

Như đã nói ở trên, việc sản xuất cồn Ethanol có thể từ nguồn nguyên liệu phế thải trong nông nghiệp, chế biến gỗ,... Cụ thể như từ rơm rạ, mùn cưa, vỏ trấu,...đã được ứng dụng thành công nhiều nơi trên thế giới. VN là quốc gia trồng lúa nước đứng hàng thứ hai trên thế giới. Hằng năm tạo ra một lượng rơm rạ khổng lồ. Như vậy với diện tích lúa nước khoảng 4 triệu ha, VN có khoảng 80-100 triệu tấn rơm rạ. Toàn bộ số lượng rơm này đa phần được nông dân đốt bỏ sau khi thu hoạch. Một phần ít ỏi sử dụng trồng nấm, thực phẩm dự trữ cho đại gia súc. Và một phần đáng kể được cày lấp vào trong đất dẫn đến hiện tượng ô nhiễm hữu cơ! 

Việc đốt rơm rạ có ảnh hưởng tiêu cực với đất trồng lúa. Đó là chưa nói đến việc đốt rơm cũng sẽ gây hiệu ứng nhà kính, thải các chất đôc hại, tro bụi, tiêu diệt các vi sinh vật có lợi cho đất sau khi đốt,...

Hiện nay công nghệ sinh học Enzim hoá biến cellulose và hermicellulose từ rơm rạ thành các phân tử đường đơn, sau đó lên men chuyển thành cồn Ethanol-giống kiểu nấu rượu trong dân gian đã được nghiên cứu và sản xuất thành công tại Đức. VN cũng đã có nghiên cứu sản xuất thử thành công. Tiếc là chưa được sự đầu tư hỗ trợ của nhà nước để triển khai ra sản xuất đại trà!?

Theo một báo cáo nghiên cứu về lợi ích của xăng E5 hiện đang được bán trên thị trường hoàn toàn có lợi so với sử dụng xăng A 92 truyền thống? Đối với xăng A 92 để chống kích nổ sẽ pha chì vào . Thay vì đưa chì, người ta đưa Ethanol để chống kích nỗ tương tự. Tuy nhiên có nhiều ưu điểm hơn như động cơ tăng tiêu thụ nhiên liệu triệt để hơn 20% so với xăng A 92. Lượng khí CO thải ra giảm, không bị ô nhiễm chì,...?

Trong nghiên cứu cũng chỉ ra nếu cồn Ethanol lẫn nhiều nước thì tuổi thọ động cơ giảm. Các chi tiết máy móc bằng cao su nhựa,...sẽ bị ăn mòn nhanh hơn?

Một điều cũng cần lưu ý thêm là phần lớn các quốc gia đưa xăng E 5, E 10, hay E 20 (các số phía trước là tỉ lệ % pha trộn vào xăng A 92) vào sử dụng thì động cơ cần phải được cải tạo cho phù hợp với nhiên liệu pha trộn này. Những chiếc xe này được gọi là xe lai. Như vậy để đưa ra thị trường các dòng xăng E trên đòi hỏi có các bước chuẩn bị rất kỹ lưỡng. 

Cách đây một năm hay hơn gì đó hàng loạt các vụ xe hai bánh, bốn bánh đang chạy tự nhiên bốc cháy. Các nguyên nhân và sự kiện này chưa được nghiên cứu và trả lời thấu đáo. Hiện các nghi vấn vẫn con đang tập trung vào việc ngay thời điểm đó xăng đang rất đắc. Có hay không sự pha trộn Ethanol là nguyên nhân chính? Tỉ lệ pha trộn càng lớn thì lợi nhuận càng khổng lồ? Giúp giải toả bài toán tồn kho hàng triệu lít Ethanol? Đó là chưa nói đến các công nghệ mà VN du nhập về có tạo ra cồn Ethanol tinh khiết và không lẫn nước hay không?

Một vấn đề cũng nên đề cập là động cơ lai ở VN đã có chưa? Một thực tế không thể phủ nhận là các xe đang lưu thông hiện nay chỉ là xe chạy động cơ thuần cho nhiên liệu hoá thạch hay đã là xe lai được nhà sản xuất chuyển đổi, đi tắt đón đầu?

Một thời gian dài các vụ xe bốc cháy khi đang lưu thông trên đường giảm và dừng hẳn vì ngưng sử dụng xăng E5. Nay với việc sử dụng xăng E5 theo "lộ trình của chính phủ", có làm các xe bốc cháy trở lại sưởi ấm mùa đông trên phố đã vào mùa? "Lộ trình" giải cứu các ông lớn thiệt là một bài toán tuyệt vời. Đẩy các khó khăn này ra xã hội và người dân cùng chia sẻ rủi ro, mới thú vị làm sao!

Gánh nặng nợ nần do đầu tư công của chính phủ, lẫn các nhóm lợi ích mang danh nghĩa quốc gia được chia đều cho dân chúng, kiểu hoa thơm mỗi thằng hít một ít, ấy mới thật là dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Kiểm tra đây, là đo đếm số nợ mà mình phải gánh thay cho chủ trương nhân văn "do dân và vì dân"!

Thứ Năm, 20 tháng 11, 2014

Vừa hợp tác vừa đấu tranh!


Hai vợ chồng nhà nọ, vốn dân Miệt Thứ sống thời Pháp thuộc. Ngày nọ đám lính Lê Dương đi càn, lùng sục cả làng dân Miệt thứ. Bọn chúng đi đến đâu là cướp bóc, đốt phá đến đó. Nhà có chó heo, lợn gà chi chúng cũng lùng, cũng bắt cho kỳ hết. Đàn bà con gái coi còn được mắt, chúng đè hiếp ráo. Rủi thay con vợ của anh nông dân vốn đẻ ba lứa nhưng cũng còn được mắt. 
Vừa nghe ngoài ngỏ có tiếng xì xồ của bọn tây. Anh chồng leo tót lên mái nhà nằm run như cầy sấy, im thin thít. Chị vợ quýnh quáng, chạy không kịp bị thằng tây bắt được đè hiếp hì hụi. Thằng chồng nằm trên mái nhà nhìn thấy con vợ bị hiếp chả dám lên tiếng. Bỏ mặc con vợ bị thằng tây hành hạ trước mũi mà chẳng dám hó hé gì!
Hiếp xong con vợ thằng tây bỏ đi. Đợi khi đám cướp đi xa, anh chồng mới rón rén trườn khỏi mái nhà xuống đất. Chị vợ phần thì nhục, phần thì đau vì nhìn thấy thằng chồng hèn mạt thò lỏ mắt nhìn bỏ mặc nàng ê chề trong vòng tay lạ. Vừa kéo quần, vừa sửa lại mái tóc bù xù, vừa khóc rưng rức. 
Chẳng nói chẳng rằng, anh chồng xán cho chị vợ bạt tay, mồm chửi: "đồ đĩ rạc. ĐM tây nó hiếp mày sướng lắm hả?"
Chị vợ càng ấm ức khóc to. " Tây nó hiếp, ông thấy mà không cứu. Đã thế còn đánh vợ nữa là sao?"
Anh Chồng bức bối đáp. "ĐM mày. Tây hiếp tao không trách. Trách là trách cái tội mày mỗi lần thằng tây giã chày trên sóc Bombo là mày cứ ưỡn mình lên là sao?"
Đã hèn còn ngu, chị vợ đốp chát. "Bộ ông mù sao không thấy thằng tây nó đè tui xuống bụi xương rồng. Mỗi lần nó hiếp là đám gai đâm vào phần lưng, mông. Không ưỡn người lên chịu đau mà được à?" Chị vợ gào to.
Tây nó hiếp thế mà không vừa hợp tác vừa đấu tranh để còn giữ cái mạng cho ông à!?
Ối trời ơi! Ông ơi là ông! Hỏi đéo gì mà ngu thế ông ơi!!!!!!

Thứ Tư, 5 tháng 11, 2014

Ngoại lai, nhất bên trọng nhất bên khinh!

Hổm rài thấy nhà nước chống nền văn hoá ngoại lai rất chi là hùng dũng. Khởi đầu cho cuộc cách mệnh này là dẹp bỏ ba cái con sư tử đá gì gì đó mà nhà nước bảo là nó có nguồn gốc từ Trung Quốc. Những con sư tử đá hình thù gớm ghiếc được đặt tại các sảnh chùa chiền, nhà hàng, khách sạn, rồi đến cả các cơ quan chính phủ, UBND, phòng tiếp dân của các đại gia nhà giàu mới nổi,...
Việc bài trừ hình ảnh ngoại lai gớm ghiếc này cũng có cái hay Thứ nhất là dẹp bỏ bộ mặt đón tiếp chi mà vừa bước vào cửa quan đã thấy đáng sợ thế này. Chưa kể vào đó còn gặp thái độ các quan sư phụ mẫu có mà vãi cả quần.
Nghĩ, không biết mấy cái vụ chết người ở cửa quan vừa qua có chi từ cái sợ đón tiếp ban đầu của mấy gã sư tử đá Tàu kia không?
Thực ra cũng có nhiều tranh cãi chí choé về nguồn gốc mấy con sư tử mang khuôn mặt hù doạ dữ tợn không đáng có này. Người thì bảo nó có nguồn gốc Án Độ,được người Hoa du nhập, rồi từ đó kết họp với ngàn năm đô hộ nó mới vào Việt Nam?
Đúng sai cũng chả cần luận bàn. Bàn là bàn cái mặt gì mà hung ác, làm ảnh hưởng uy danh của vua sư tử được hàng triệu triệu trẻ nhỏ, người lớn say mê. Có chăng mấy cái thằng sư tử đá này cùng hạng vói gã Scar, người chú của Simba, lập mưu giết hai cha Simba-Kẻ tàn ác muốn thống trị muôn loài bằng sức mạnh của đám ngoại lai binh linh cẩu! Câu chuyện có vẻ giống Việt Nam mình nhỉ!? Tiếc thay khuôn mặt tàn ác của sư tử đá-Scar ấy còn xuất hiện ở cả cửa chùa, quả thiệt lạ lùng!?
Kể ra thì cũng phải nói cho hết nguồn cơn của cái gọi là ngoại lai. Ngày nay không chỉ có sư tử đá mang khuôn mặt sát thủ đầu nguyên thủ mà còn ở những con rồng đá, lân đá,... cũng tàn nhẫn không kém, thế sao không dẹp tiệm hết cho rồi!?
Ngẫm cho cùng nếu đất nước này dẹp cho kỳ cùng, tận gốc rễ những thứ ngoại lai đang tận diệt nền tảng bản địa thì hay biết mấy. Mấy cái ngoại lai kia, nói cho cùng chỉ là thứ ông kẹ, hù doạ trẻ nhỏ, người yếu móng vía,..Cái ngoại lai đáng sợ, cứ sùng sững toạ lạc trong từng nhà, nơi chùa chiền, các cơ quan bộ sậu quyền lực đáng sợ gấp ngàn lần.
Sự du nhập và tồn tại của nó, dầu cực ngắn ngủi nhưng đã đủ để lại di hoạ khổ đau tận cùng cho cả dân tộc bất hạnh này! Dũng cảm dẹp đi thứ văn hoá ngoại lai sư tử đá-Scar kia thì còn ngần ngại gì mà không dẹp đi mấy cái lão râu xồm chễm chệ ngôi cao nơi bàn thờ tiên tổ. Hình ảnh đẫm máu của công cụ vô tri liềm búa được những tay người ngoại lai biến thành công cụ đẫm máu nhuộm đỏ một biểu tượng kinh hoàng!
Ngoại lai từ tư tưởng, hình ảnh và các ảnh hưởng khủng khiếp ấy đang ngày đêm tàn phá đất nước này, dân tộc này. Lưu giữ chúng phải chăng là lợi ích, và quyền lợi của nhóm nhỏ người các ông- kẻ có quyền quyết định phủi đi hay lưu giữ!?
Chừng nào cái ngoại lai đồ tể, quái gỡ kia còn dằng dai ảnh hưởng, và chi phối toàn bộ quyền tự quyết, quyền sống, quyền làm người của dân tộc này, thì chừng đó "ngoại lai" cho mưu cầu quyền lực, "ngoại lai" đảm bảo cho thú vui hưởng lạc trên sự đau khổ của đồng loại của một nhóm nhỏ người tham tàn và hung ác hiểu rõ và một nhóm nhỏ phù phiếm mụ mị, sợ hãi cộng sinh, hưởng xái phần rơi rớt từ những kẻ thống trị!
Ờ mà phải chăng chối bỏ, từ bỏ và dẹp bỏ những biểu tượng, hình ảnh, những tư tưởng ngoại lai ấy là trách nhiệm của kẻ du nhập thôi sao? Trách nhiệm 90 triệu con dân này đâu rồi? Máy cái này có nguồn gốc bản địa hay ngoại lai? Thiệt tình rối như canh hẹ!


Chủ Nhật, 2 tháng 11, 2014

Đảng ta vinh quang mãi mãi!



Họp bộ sậu đảng cao sao vàng-Đảng xức sầu cù là, chủ tịch đảng thờ ơ nhìn lướt qua đám hạ bộ, e hèm lên tiếng:
- Các đồng chí đây, tất cả đều rất mực trung thành! Tựu trung đều kiên định, một lòng một dạ cúc cung tận tuỵ, tin tưởng tuyệt đối đường lối, tư tưởng tiên ông, thánh nhân, bồ tát cục tác hiện thân,...!
- Thế giới đang biến đổi từng giờ, từng ngày theo hướng bất lợi cho sụ tồn vong của đảng xức dầu cù là chúng ta. Giờ mà đếm đi đếm lạ cũng chưa hết một bàn tay các Cương quốc kiên định con đường xức dầu! Rủi thay trong lý luận, luận lý của những cái đầu uyên bác trong đảng viên cao sao vàng còn nhiều hạn chế và bế tắt.
Nay nhân buổi triệu tập cuộc họp tối mật này, tôi muốn chỉ rõ ra con đường sáng, con đường hy vọng cho tương lai Đảng ta!
- Hỡi các chiến hữu thân mến! Các chiến hữu có thật sự cùng ta đêm quên ăn, ngày quên ngủ? Có thật sự cùng ta năm gai nếm mật trải mấy mươi năm đêm rừng muỗi vắt ở long sàng? Thành quả ấy phải chăng có được là nhờ ở thiên tài đảng ta?
- Câu trả lời là tự thân nơi những cái đầu ưu việt của các đồng chí! Và hẳn không ai trả lời là không có! Chủ tịch đảo mắt nhìn.
- Này các chiến hữu thân mến! Các chiến hữu có thấy tụi nó giẫm đạp nhau để tranh mua hàng hiệu giảm giá không? Đám bộ hạ đồng thanh đáp lời " Dạ cóóó...."
- Dân chúng lũ lượt chen chút nhau để được ăn chực những bữa ăn miễn phí không? "Dạ cóóóó...."
- Có thấy bọn chúng tranh giành một suất mua căn hộ cao cấp vừa qua ở HN không? "Dạ cóóó...."
- Các bộ hạ thân thương của ta có thấy Nhật nệ, quan nùn, và nhiều nhiều những đứa như thế không? "Dạ cóóóó..."
- Có thấy các sư thổi kèn, tự sướng không?
- Các đồng chí có thấy nền giáo dục chúng ta chỉ tạo ra những thằng làng nhàng dở thầy dở thợ không? Chức hàm học vị của các vị đây chỉ là chuyện nhỏ nếu có mối quan hệ thân quen và lắm tiền không? Im lặng?
- Các đồng chí có thấy cảnh phố phường ngập rác sau lễ hội không? "Dạ cóóóó..."
- Các đồng chí có thấy đại bộ phận im lặng kiếm ăn thay vì dám nói lên chính kiến của mình không? "Dạ Cóóó..." Lúc này tiếng la lớn và hứng khởi dị thường!?
- Các đồng chí có thấy nước ta có nhiều giáo sư tiến sĩ chuyên ngành ốc vít nhưng chẳng thèm làm ốc vít bán cho Samsung không? "Dạ cờ hóóóó...."
- Các đồng chí có thấy những đồng chí già trong những buổi kỉ niệm 60 năm, 80 năm vẫn kiên định một con đường không? " Dạ có ạ!"
Còn nhiều nhiều nữa những cái "thấy" của tôi và cái "Dạ có" từ các đồng chí mà tui không thể liệt kê ra hết. Các đồng chí có hiểu "cái thấy" ấy thế nào cho vận mệnh tồn vong của đảng xức dầu chúng ta không? Cả bộ hạ đồng thanh đáp lời: " Dạ thưa đồng chí chủ tịch đảng xức dầu, những hiện tượng đó là điềm báo ứng đảng ta còn quang vinh mãi mãi ạ!"
Mừng thay, các đồng chí đây đều nhận ra dấu hiệu đó! Tôi nhiệt liệt hoan nghênh các đồng chí sáng suốt nhìn ra ánh sáng ở cuối đường hầm! Chúc các đồng chí dồi dào sức khoẻ, nghiên cứu thêm nhiều lý luận, luận lý mang tính thực tiễn, ứng dụng vào đời sống xã hội chúng ta. Chúng nó càng điên cuồng úp mặt vào chổ tối càng tốt. Chừa lại phần sáng trên đầu chúng cho tụi mình ngồi! hehehe...Hình minh quạ các đồng chí thấy có sướng hông nào!?

Thứ Sáu, 10 tháng 10, 2014

Cha con cùng nói dối!

Mất chìa khoá xe, mất luôn con khủng long bằng bông nhỏ híu. Món quà của con gái tặng bố. Nó bảo: "Bố móc con khủng long bằng bông này vào chìa khoá xe nhe! Con yêu con này lắm! Có nó, xem như lúc nào con cũng bên bố rồi đó!"
Tối về nhà nhờ quá giang đồng nghiệp. Con gái hỏi: " xe đâu mà bố về nhờ?"
Bảo với con: Bố đánh rơi chìa khoá xe và con khủng long mất rồi. Con bé thoáng buồn vì mất đi người bạn thiết thân của nó. Trông con bé nghĩ ngợi lung lắm. Đi tắm ra thấy con gái đưa cho chiếc móc khoá mới, nó bảo:
-Con Doremon này bạn con nó cho lâu rồi mà con chưa xài. Bố lấy con này gắn vào chìa khoá xe mới đi bố!
Nhìn cái móc khoá mới tinh, nhìn đôi mắt ngây thơ của con bé mình nhận ra sự khác biệt trong lời nói có vẻ hoàn hảo!?
Bố cảm ơn con nhiều! Con bé đáp: "Bố phải cảm ơn bạn con mới đúng, bạn con cho con mà. Ừ vậy con cảm ơn bạn con giùm bố nhé! Con bé hài lòng vì bố có vẻ vui với món quà của nó. Quan trọng là nó nghĩ bố đã tin nó!?
Sáng, qua hỏi chị bán tạp hoá cạnh nhà. Chị bảo, bé Lý hồi hôm qua đây mua cái móc khoá Doremon.
Chiều về con bé đón ở cổng hỏi: Bố có thích cái móc khoá Doremon không? Bạn bố có khen nó đẹp không? Mình nói dối bảo có!
Nhìn con bé mân mê cái móc khoá . Chạnh lòng, ôm con vào lòng hỏi nó:
-Con có sợ bố mắng không? Con bé đáp: Con sợ. Vì sao con sợ, bố có mắng bao giờ không?
-Thế con nói dối, bố mắng thì sao? Dạ thì bố mắng đúng. Con bé đáp.
Con có nghĩ bố biết con nói dối không? Con bé im lặng nhìn mình, nhìn cái móc khoá. Nhìn dòng nước mắt chảy dài hai bên khoé mắt! Con gái vẫn cúi đầu, oà khóc nức nở:
-Tại con thương bố và muốn cho bố một bất ngờ thôi mà!

Chủ Nhật, 21 tháng 9, 2014

"Rửa tội"

Hồi nhỏ ở làng mình có lão già dịch nghèo khó, ốm cà tong, cà teo. Nghề kiếm sống của lão già ấy là đạp chiếc xe đòn dong đi bán đá lửa, hột quẹt, dầu lửa, tim đèn,.. Lão nghèo đến nỗi quần áo rách bươm, đầu tóc bạc phơ, râu để dài đến rốn. Trên người lão lúc nào cũng vận hai cái áo rách như tổ đĩa. Cổ quấn chiếc khăn rằng màu cháo lòng sặc sụa mùi thuốc lá, mùi mồ hôi đã lâu ít khi tắm.
Chiếc Xe đòn dong cà khổ của lão chỉ là khung sắt hoen gỉ, chẳng còn ký ức màu sơn của một thời. Cái vỏ xe còn kinh khủng hơn nhiều. Lão đi xe đạp không ruột. Để có thể chạy được trên con đường làng gồ ghề, lão cập nhiều lớp vỏ vào rồi dùng ruột cao su quấn thật cẩn thận. Giống như thời nay người ta dùng bánh cao su đặc để đẩy xe cút kít vậy?
Đồ nghề kiếm cơm độ nhật của lão là chiếc túi thầy tu màu vàng bạc phết được treo cẩn thận ở đằng trước tay lái.
Hàng ngày lão đạp xe khắp làng trên xóm dưới bán cho mấy bà nông dân, thanh niên, mấy cụ già,... cà khổ sau thời hậu chiến tranh miền nam mua để nhúm lửa, đốt thuốc rê,..
Lão già được dân trong xóm đặt biệt danh ông già be he vì cái tật dê lộ liễu, và câu rao hàng danh bất hư truyền của lão. Thời ấy lão đâu chừng 70 cái xuân xanh. Mỗi khi rao bán hàng lão thường nói "Ai mua quẹt, đá lửa, tim đèn không, be he he e e...."
Mấy bà nông dân trong xóm rất ngại khi phải mua hàng của lão vì cái tánh dê chẳng nể nang ai. Gặp mấy bà "hôm qua đi nhận xác chồng" lão lại càng dê tợn! Bà nào sống một mình, tính tình lẳng lơ là lão xáp tới mò vú ngay.
Hồi ấy trong xóm có mợ Năm Giòn, chồng chết trận năm sáu tám. Mỗi lần đạp xe qua đây, lão cố tình dừng lại thật lâu để mong nhìn thấy mợ!?
Mợ năm có bốn người con. Mợ còn trẻ, tướng người thắt đáy lưng ong. Mợ có cặp vú đầy đặn chết người. Ba chồng sợ mợ đi bước nữa nên bắt mợ ăn trầu, mặc quần đáy nem trông sao cho già quéo đi!
Cứ mỗi lần đứng đấy, tiếng rao của lão càng khiêu khích hơn. Ông năm Điểu-cha chồng mợ căm lão lắm. Có lần ổng chửi lão một trận. Từ đó lão cạch không dám nhìn mợ nữa. Mỗi khi đạp xe qua lão chỉ thở dài, rồi rao mà không đệm vào từ be e heeee ở cuối câu!
Dân làng bảo, hồi nhỏ lão tu hành đạt phẩm hạnh thuộc hàng cao quí. Nghe đâu đã từng làm trụ trì chùa ở hàng nhất phẩm. Tiếc thay vì vận số, vì tục luỵ mà lão cựu sư cụ không giữ được mình. Hồi trẻ người ta bảo lão đẹp trai, lại có tài ăn nói nên thí chú đi chùa cúng dường chư phật, thành tâm xám hối, cầu nguyện an lành đâu không thấy, chỉ thấy sư cụ thò lỏ dòm như chó nhìn cứt trôi sông lòng thòng nhễu nhại, thèm thuồng vụng trộm!
Phật tử đàn bà tới chùa ngày rằm hay đêm sáng trăng chỉ thấy thầy áo mão chỉnh tề, đọc kinh tụng niệm. Đám con nhang xì sụp khấn vái. Tàn buổi cầu kinh phật tử quay về nhà, đẫy giấc cho buổi đồng áng ngày may.
Sư cụ lủi thủi hào hứng lui về hậu liêu cùng với thí chủ cúng "giường chiếu", đàm luận phật sự cùng lão.
Tiếng "lành" đồn xa. Mấy lão nông tri điền nổi giận rình mò, vớ bẩm sư cụ đang mây mưa tìm chốn cực lạc chẳng qua tu thiền, kinh thỉnh chánh niệm. Đám nông dân nổi giận tận cho sư cụ thức tỉnh bằng côn sắt và nắm đấm. Đuổi cổ sư cụ trần truồng lỏng nhỏng chạy tít ra đồng.
Từ ấy, sư thôi không còn tu hành chi nữa. Đổi lại cho nỗi buồn thất sũng vì chuyện gái gú. Sư dùng dao chặt đứt cái của quý mà vì nó khiến con đường tu nghiệp giải thoát cái khổ, chấm dứt kiếp luân hồi nửa đường gãy gánh!
Duy có điều, lão già vẫn giữ thói quen ăn chay trường cho đến cuối đời.
Hồi nhỏ, trước nhà có hàng tre trúc toả bóng mát quanh năm. Mỗi lần đi bán ngang đây quãng giờ ngọ. Lão dừng xe, dỡ gói cơm lá chuối, ngồi xếp bằng miệng lẩm bẩm cầu kinh. Bữa cơm chốn thiền môn dang dỡ của lão trông thiệt buồn lòng. Gạo đỏ cứng còng queo, vài trái dưa chuột đèo đọt luộc, ít muối mè. Nhìn thấy ông lão ăn, con nít như mình thèm nhỏ giãi. Phải giờ cơm, bưng tô ra ngồi kế bên, khi thì lão sớt cho miếng chao, ít trái luộc. Thuở ấy miếng ăn cứ mà nhớ đời hoài!
Những tưởng sư xử cái nguồn gốc gây ra phiền não là chấm dứt phiền não!?
Chẳng những nỗi vọng thèm khát đàn bà trong lão không hề giảm đi mà có phần biến thái qua trạng thái khác còn kinh khủng hơn. Gặp người nào lẳng lơ là lão cứ thò tay bóp vú chẳng ngại ngùng. Có điều vì cái của nợ ấy chẳng còn, nên nỗi thèm khát đàn bà của lão cứ ứ nghẹn trong ánh mắt và hành xử qua thói quen sàm sỡ!
Nghĩ về câu chuyện làng hồi ấy mới thấy cái liêm sĩ của con người vẫn vọng về trong cách sống. Dầu lão ấy không dứt được nghiệp quyến rũ đàn bà nhưng ít ra lão còn liêm sĩ xử cái làm lão thoả mãn., cái gây cho lão bao phiền não ưu tư!
Tiếc thay, cái muốn trong trí não ấy còn đang sống! Cho dù lão có cắt con cu ấy nhiều lần thì chuyện đàn bà cứ vẫn sống khoẻ như ngày nào!
Kỳ lạ thay, kẻ vô liêm sĩ thời nay trong chốn tu thiền đạo đức tiền nhân thay vì hành động trưởng thượng như lão già be he bán quẹt đá lửa, nay ra lệnh giết đàn bà.
Loáng thoáng đâu đó trong lịch sử, cũng đã hơn một lần cho thấy tay tiền nhân đạo đức ấy cũng đã giết đàn bà để bảo toàn danh dự cho sự trinh tiết của gã khi còn là CON NGƯỜI!
Diệt đối tượng là động cơ, nguyên nhân gây ra phiền não, thay vì diệt ý niệm dục thức dậy trong trí não của lão thầy tu khốn kiếp là chuyện nên làm? Quyền lực nằm trong bàn tay đầy máu, cái ngu biến thành cái ác luôn đồng hiện mãi mãi, phi thời gian.
Tấn trò đời thô bỉ ấy như là minh chứng cho sự liêm khiết? Rằng thoả mãn nhục dục bằng đàn bà, giết đàn bà để quay về nẻo thiện. Phải chăng là tấm gương sáng được nhóm công cụ quyền lực nhiệt tình học tập để thành chánh quả!?

TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP Năm 2014. Sửa lại chút đỉnh vẫn xài được.


 Dân Việt Nam sưu tầm và biên soan dựa trên tuyên ngôn độc lập của Hồ Quang.
Hỡi đồng bào cả nước,
"Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi".
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.
Thế mà hơn 80 năm nay từ khi có ĐCS, bọn chúng lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất của dân ta, đền bù với giá rẻ mạt không ai chịu nỗi, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa.
Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.
Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ nhà nước giống nhau ở Trung, Nam, Bắc để thống trị ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết.
Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng dùng giang hồ đội lốt thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các người yêu nước của ta trong những bể máu.
Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.
Chúng bán bia , rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.
Về kinh tế, chúng bóc lột, tham nhũng dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu.
Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.
Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng.
Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên, ngoại trừ tư bản thân hữu và tư bản đỏ. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn.
Mùa thu năm 1988, phát xít Tàu đến xâm lăng Gạc Ma để mở thêm căn cứ đánh ta ở Biển Đông, chúng hoàn toàn yên lặng, quỳ gối đầu hàng bằng hội nghị thành đô, mở cửa nước ta rước Tàu thêm một lần nữa. Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Đảng cộng sản Trung Quốc và Đảng cộng sản Việt Nam. Từ đó dân ta càng cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Nam Kỳ ra trung kỳ rồi đến Bắc kỳ kinh tế ta suy sụp hoàn toàn. Theo khảo sát mới nhứt để thoát ra cái bẫy sập trung bình thì nước ta cần 44 năm nữa.
Ngày 1 tháng 5 năm nay, TQ ngang nhiên đặt giàn khoan vào Biển Đông. BCT hèn nhát hoàn toàn im lặng, hoặc là đầu hàng. Thế là chẳng những chúng không "bảo vệ được chủ quyền quốc gia mà chúng đã bán nước ta hai lần cho Tàu.
Trước ngày 16 tháng 7, biết bao lần người dân đã xuống đường kêu gọi bọn Tàu cộng rút giàn khoan, kêu gọi nhà nước, BCT thôi hèn với giặc ác với dân cùng liên minh với dân để chống lại hành vi xâm phạm chủ quyền trắng trợn của chúng.BCT-ĐCS đã không đáp ứng lại mà còn thẳng tay khủng bố người yêu nước hơn nữa. Thậm chí đến ngày 15 tháng 7 khi thua chạy-TQ đã rút giàn khoan Hải Dương ra khỏi Biển Đông, chúng còn nhẫn tâm tuyên bố đó là nhờ thiên tài Đảng ta.
Tuy vậy, đối người CS, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo. Sau cuộc biến động ngày 1 tháng 5, dân ta đã đón nhận nhiều người dũng cảm bỏ đảng quay về với quần chúng và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ.
Sự thật là từ sau Hội Nghị Thành Đô năm 1990, nước ta đã thành thuộc địa của Tàu, chứ không phải thuộc địa của Nga nữa. Nay là lúc nhân dân cả nước phải nhận rõ sự thực này để nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Cộng hòa.
Sự thật là dân ta lấy lại nước Việt Nam từ tay Tàu, chứ không phải từ tay Nga.
Ba X chạy, Hói hàng, vệ Kính Vương thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích CS gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ độc tài mấy mươi năm qua mà lập nên chế độ Cộng hòa.
Bởi thế cho nên, chúng tôi, Người Dân của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Trung Quốc, xóa bỏ hết những hiệp ước mà TQ đã ký với nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của TQ trên đất nước Việt Nam.
Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân bành trướng Bắc Kinh.
Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng, nhân quyền tại Liên Hợp Quốc, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam.
Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Tàu hơn 1000 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng lên chống độc tài cộng sản mấy chục năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!
Vì những lẽ trên, chúng tôi, người dân của nước Việt Nam Cộng hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:
Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.

Chủ Nhật, 27 tháng 7, 2014

Dì Tư Xom.

Hồi còn sống ở cái làng An Hiệp bé tẹo, nghèo khó. Đất đai là công cụ sản xuất của Đảng giao cho dân bị Hà Bá ngày đêm xà xẻo! Dân tình nhộn nhạo mai dỡ nhà, mốt dựng nhà. Cứ điệp khúc này mà hát mãi nên nhà ngày càng bé tẹo và tạm bợ hơn! Nhà mình chẳng khá gì hơn là cái chòi lá của trẻ con thuở chơi nhà chòi.
Đối diện với căn hộ rách bươm nhà mình phía bên kia sông là nhà dì tư Xom. Dì tư dáng người nhỏ thó, miệng rộng, ăn nói sang sảng như đàn ông. Miệng lúc nào cũng bỏm bẻm nhai trầu. Ngán nhất là mỗi khi bả qua nhà chơi trong lúc miệng đang nhai trầu. Cứ bạ đâu phun đó. Vì là khách đến chơi nhà nên không cách chi nói được với dì. Nhà thì nền đất chỗ nào di tư phun trầu nó cứ nhão ra. Đã thế khi nhai trầu nước dãi màu đỏ ứa ra hai mép, dì tư dùng ngón trỏ và ngón cái quẹt mồm rồi quệt lên thành ghế hay vách nhà thiệt là ớn hết sức!
Dì tư có tật là ghé nhà mình có khi ngồi nói chuyện đến khuya. Dì nói bất kể chuyện chi. Nói về gia đình dì, tố khổ cái lão chồng dâm loàn đã bỏ dì theo người đàn bà khác. Nói về đám con dì, con dâu dì,...Nhiều khi nói những tình huống khiến dì cười đái trong quần luôn! Oải nhứt là khi đang học bài gặp dì tư qua chơi nhà, y như rằng sáng hôm sau tiết kiểm tra miệng ăn phải con ngỗng là chuyện thường tình. Hồi nhỏ học hành dỡ hơi. Bài chi thuộc lòng phải gạo đi gạo lại cả tiếng mới may ra nhớ lõm bõm!
Nhà di tư Xom không có đất ruộng trồng lúa. Dì bảo, tao trước kia nhà cũng có cả chục công ruộng trồng lúa một vụ rất trúng. Nhưng cái thằng chồng cặt ngựa câu kết với con đĩ lồn lừa đã lừa bán cho người khác rồi!?
Thu nhập chính của Dì tư Xom là cách nhật chèo xuồng sang phía bên kia bờ sông Tiền, thuộc huyện Cao Lãnh để hái rau muống mọc dại về bó thành từng lọn nhỏ rồi đem ra chợ Sa Đéc bán lấy tiền đổi gạo! Hồi đó người dân quê tôi gọi vùng đất màu mỡ phía bên kia sông Tiền là bên cồn. Cồn tức là vùng bãi bồi phù sa. Nơi đó dân chúng thưa thớt, đất còn hoang hoá. Bãi bồi có nhiều tôm cá, rau cỏ mọc xanh um, cực kỳ tươi tốt. Đặc biệt rau muống đỏ, cọng nào cọng nấy mập ú cỡ ngón tay cái, Rau trai cọng to bằng ngón tay trỏ, hái về luộc, ăn mềm và ngọt. Ăn cơm bằng rau này luộc chắm mắm kho quẹt là số dzách!
Mắm kho quẹt của người nhà quê miền tây khác một trời với món kho quẹt chấm rau tập tàng trong mấy nhà hàng quán nhậu đất Sài Gòn. Kho quẹt của người miền tây là nước mắm bỏ vào cái ơ đất nung đặt lên bếp củi và đun chừng nào cạn còn lại hổn họp sền sệt như muối. Món kho quẹt tuỳ chỗ giàu nghèo mà có thêm chút đỉnh sự khác biệt, khi thì thêm vào ít tép mỡ, mấy trái ớt hiểm xanh. Kho quẹt chấm rau luộc, rau sống chỉ tổ vở nồi cơm nhà nghèo. Thời đó gạo vốn là thứ chính trong bữa ăn hàng ngày. Ngoài trời mưa lâm thâm ăn cơm với nước mắm kho quẹt là sướng nhứt. Ăn xong một đập hai xoa leo lên giường trùm chăn ngủ một mạch tới sáng còn chi bằng!
Phần lớn người làng tôi đều sang cồn để kiếm sống. Nào là đánh cá, chất chà cá he, chà tôm, cào hến, chặt ngó bần về làm củi đốt, hái rau muống, làm thuê cho mấy chủ đất giàu có bên kia,...
Dì tư làm việc cần mẫn hàng ngày. Trong đời chưa thấy người đàn bà nào cực khổ như dì. Ngày nắng hay ngày mưa gì bà cũng đều đặn làm cái công việc cực khổ đó mình ên. Sáng tầm 3 giờ sáng, dì tư dậy nấu cơm gói vào lá chuối với ít con khô, múc một ấm nước lóng phèn đem xuống xuồng, rồi bơi một mình sang kia sông để hái rau muống. Công việc bơi xuồng ghe nhỏ qua sông Tiền trong mùa mưa bão thường gặp nhiều rủi ro chết người. Sợ nhất là lúc giông gió thời điểm vượt sông. Mặt sông đang yên lặng bỗng sóng nổi cồn cao 2-3 mét, quật từng cơn thì xuồng ghe nhỏ, chở khẳm là bị nhấn chìm như chơi. Làng tôi chứng kiến nhiều vụ lật xuồng rất thương tâm!
Hồi đó có con bé tên Sáu Sậu cũng cỡ tuổi mình có mang đâu chừng sáu tháng đi cấy bên cồn về xuồng bị giông lốc nhấn chìm. Trên xuồng có 6 người. Ba người chết trong đó có Sáu Sậu và đứa con hài nhi trong bụng! Xác Sáu Sậu trôi tuốt xuống bến phà Mỹ Thuận phải bốn ngày sau người nhà mới tìm thấy đã trương phình! Sáu Sậu chết lúc mới 16 tuổi cùng với đứa con không biết ai là ba nó!? Sáu Sậu mồ côi cha mẹ, ở với ông ngoại có thời đi lính cho Tây tận Algieri!
Thường dì tư đi từ sáng sớm đên tối mịt mới trở về nhà. Ngoài đống rau muống ngập xuồng còn có mấy trái bần chín cây, bắp chuối xiêm, xoài chín,...dì bảo là lượm trong các bờ đê bao!? Về nhà bà cột cái xuồng vào bến rồi một mình lúi húi vác lên bờ để lặt là già, lá sâu xia, cắt bỏ rể mọc từ nách lá, bó thành từng lọn cỡ cổ tay người lớn bằng cọng lá chuối khô xé nhỏ. Thường dì chỉ làm việc một mình. Có nhiều đêm dì làm cho tới gần sáng mới xong. Sau khi đã bó xong, dì lại vác xuống xuồng rồi bắt đầu chèo ghe ra chợ Sa Đéc để bán.
Hồi đó từ làng ra đến chợ Sa Đéc đường sông khoảng chừng 4-5 cây số, chỉ có một con đường ngắn nhất là đi cặp dòng sông Tiền. Ngán nhất là chèo ghe đi vào mùa nước nổi. Vào mùa này, nước phù sa đỏ ngầu từ thượng nguồn đổ về rất mạnh. Suốt mùa nước nổi dòng chảy chỉ một chiều duy nhất. Dòng chảy mạnh đến nỗi nhiều khi ghe trang bị máy đuôi tôm cũng phải ì ạch vượt qua những chổ xoáy hiểm trở. Đó là chưa kể đến hiện tượng đất lỡ hết sức nguy hiểm. Nếu ai xui xẻo đang đi gặp đất lỡ thì xuồng ghe bị hút vào và nhấn chìm tợ như gặp cơn sóng thần nhỏ. Hồi trước nhà mình cũng từng bị mất chiếc ghe vì đất lở. Đất lở ngoài vàm sẽ tạo hiện tượng nước trong các con lạch nhỏ bị hút ra, kéo theo ghe neo đậu trong lạch cũng bị hút theo. Nếu không phát hiện kịp ghe trôi ra sông lớn, mất luôn!
Gặp chổ vịnh, nước chảy yếu dì tư chèo, gặp chổ xoáy nước chảy mạnh không thể chèo được dì tư cặp bờ, leo lên ruộng dùng tay kéo ghe vượt qua! Nhẫn nại, chịu thương chịu khó một mình dì cũng tới chợ. Nhiều hôm nước ngoài ruộng ngập quá lưng quần, dì phải vừa bơi vừa kéo ghe rau muống khẳm đừ! Bán xong bơi xuồng ra sông Tiền thả trôi dòng nước đưa dì về xóm cũ. Nhiều hôm dì tư mệt mỏi ngủ thiếp đi, thuyền trôi tới phà Mỹ Thuận! Cách xa nhà dì cả chục cây số. Đời đã khổ lại càng khổ hơn!
Dì tư có bốn người con, ba trai một gái. Đứa nào dì cũng cực khổ lo cho ăn học. Anh con lớn của dì tư học dang dỡ đại học văn khoa Sài Gòn, về lấy vợ sớm. Gặp cô vợ quá quắt nên dì tư chửi suốt ngày. Đứa thứ hai là gái học trên Sài Gòn rồi lấy anh chồng hải quan gốc bắc kỳ. Anh thứ ba ra làm công thương nghiệp ở tận Hồng Ngự. Còn ở với dì là thằng Út, suốt ngày đi chơi bời lêu lỏng, bỏ học sớm, chả thấy phụ dì tư làm gì hết. Phần là dì tư có tật chửi con cái. Mỗi lần bả chửi mấy tiếng đồng hồ. Chửi con đã, rồi lôi chồng ra chửi. Nhiều đêm dì tư vừa lặt rau muống vừa chửi chồng con ra rả cả đêm. Có khi chửi đã dì ngủ luôn sáng bảnh mắt, quên cả lặt rau. Chuyến chợ đó coi như dành lại cho ngày hôm sau.
Dì tư có tật hay chửi hàng xóm vì chuyện không đâu. Chuyện tàu lá dừa nhà dì rụng xuống nhà bên bị người ta lấy mất làm lá nhúm lửa dì cũng chửi. Về nhà mất cái này cái kia dì nghi ngờ ai là cứ chõ mỏ sang nhà đó mà chửi. Ai nhột lên tiếng chửi lại. Thì ô hô, một trận chiến ngôn ngữ sử dụng linh vật được tung ra!
Dì chửi, nếu không ai phản ứng gì thì cuộc chửi kéo dài chừng tiếng đồng hồ. Chửi lại thì dì chửi tiếp, chửi khi nào khan tiếng thì thôi.
Dì tư không biết chữ nhưng được cái là thuộc rất nhiều ca dao tục ngữ nam bộ. Đêm miền quê yên ắng, một mình dì tư bên cái đèn trứng vịt, những đêm thanh bình không chửi chồng con, hàng xóm thì dì hát đối một mình. Có khi thì dì đọc thơ lục bát của đức Huỳnh giáo chủ. Ba của dì tư nghe nói là tín dồ của phật giáo Hoà Hảo nên nhờ vậy mà dì thuộc thơ của ổng rất nhiều!
Làm lụng cực khổ cả đời như thế mà dì tư sống thọ phết, bà chết nghe đâu cũng gần chín mươi tuổi mặc dù có thời kỳ dì mắc bệnh lao vì lao lực quá sức!
Cuộc đời dì quả thật ứng với câu nói bất hủ " Con người sinh ra chỉ để đau khổ rồi chết!". Dì sống với cả đời cực khổ, chồng thì bỏ, con cái vì ớn cái tánh hay chửi của dì nên chẳng dám đem dì về phụng dưỡng. Cuối đời có rỗi rãnh chút đỉnh...nhờ bệnh tật và cũng chẳng còn sức khoẻ để làm!

Thứ Sáu, 25 tháng 7, 2014

Làng tôi đâu rồi!?

Hôm nay ngồi buồn bổng nhớ hai câu thơ trong Lục Vân Tiên của nhà thơ mù Nguyễn Đình Chiểu "Trước đèn xem chuyện Tây Minh. Gẫm cười hai chữ ân tình éo le!". Hai câu thơ gợi nhớ ngày quá khứ ngày xưa khi trở về làng tôi. Ngôi làng nhỏ xíu, trù phú nằm dọc bờ sông Tiền bị tàn phá nặng nề bởi dòng chảy hung hản của con sông mỗi mùa nước nổi tràn về.
Sau 30/75 cả gia đình dắt díu nhau về làng ni sau khi ba đã được tẩy não. Nhà cửa bị tịch thu, bị đuổi việc. Hồi xưa ông già làm hiệu trưởng trường Kỹ Thuật Nông Thôn ở Vĩnh Long. Lúc đó còn nhỏ, chỉ mới mười tuổi. Việc trở về làng nơi chôn nhao cắt rốn của mẹ đối với mình là một chuyện gì to tát và kỳ thú lắm. Không kỳ thú sao được, vì với trí tưởng tượng của thằng nhóc như mình là biết bao nhiêu viễn cảnh tươi đẹp đang chờ đón nó. Nào là tha hồ tắm sông, đi bắn chim, câu cá, đi mò cua bắt ốc,...toàn là tưởng tượng bao nhiêu chuyện để chơi và càng ít nghĩ đến việc đi học chừng nào càng thích chừng đó! Từ một thằng nhỏ thành thị, bước vèo một cái về với thế giới nông thôn, với mình quả là điều hết sức kỳ diệu.
Điều đầu tiên một thằng nhóc như mình cảm nhận được đó là đêm đầu tiên ở thôn quê không có ánh điện. Cả nhà chỉ có mỗi cái đèn dầu Huê Kỳ trứng vịt cháy leo lét. Vì là dân thành phố nên chuyện ăn cơm cũng theo nếp xưa, thông thường bữa tối vào tầm khoảng sau 18 giờ. Cả nhà năm anh em toàn lích nhích. Thằng lớn nhất là mình. Đám em nhỏ nhặng xị đòi ông già mình bật đèn để xem tivi. Ông già mình đành nói dối bọn nhóc là điện bị mất nên không thể xem ti vi được. Mấy đứa nhỏ thấy bóng tối nên càng sợ ma tợn. Mình làm anh thấy tụi nhỏ bảo ma nên cũng cuống cuồng theo.
Cả tháng đầu mỗi khi bóng đêm phủ chụp xuống sau ngày vui chiến thằng, lũ nhóc anh em nhà mình chỉ trùm chăn ngồi túm tụm trên giường chờ đợi bữa cơm tối. Tịnh không một thằng nào can đảm dám mò ra ngoài để đi đái.  Cũng vì cái tính sợ ma này mà thằng em thứ tư của mình dính cái tật đái dầm kéo dài cho tới khi nó 14 tuổi!?
Con người vốn là một sinh vật thích khi khá tốt với sự thay đổi môi trường! Dần dà rồi đám anh em nhà mình cũng bắt đầu hội nhập với đời sống thôn quê. Chúng nó không còn đòi ông già mở điện để xem ti vi, không còn sợ ma như cái hồi mới về. Mình cũng đã can đảm hơn khi dắt mấy thằng em đi đái ban đêm. Sống ở làng quê có cái thú là đái chỗ nào cũng được.
Nhà mình vườn rộng, cây cối um xùm vì bị bỏ hoang mấy chục năm nên đêm về thường nghe tiếng chim cú kêu rùng rợn. Mình nhớ có hồi thằng em thứ tư nhà bị bệnh kéo dài cả tháng. Lúc đó chả có bệnh viện hay thuốc tây gì cả. Tất tần tật nhà mình ai bệnh thì đi trị bệnh mấy thầy lang trong vườn. Thuốc của mấy ông lương y làng tôi chỉ là cây thuốc nam được mấy người làm từ thiện hái về phơi khô chặt nhỏ để làm thuốc. Thằng em bị bệnh ban bạch? bệnh tình thằng nhỏ kéo dài đến nỗi chỉ còn da bọc xương. Mấy ông thầy thuốc nam tiên lượng thằng nhỏ sẽ chết. Đêm nào tiếng đám cú vọ kêu là bà già khóc dữ lắm.
Người miền tây cho rằng tiếng kêu con cú mèo là điềm gỡ!? Còn nhớ hồi nhỏ đọc mấy tờ báo xuất bản trước khi miền nam lưu vong tờ Thần Chung thì phải, có đăng phóng sự trước khi tử hình cậu Út Trầu-Ngô Đình Cẩn thì đêm hôm trước tử hình có con chim cú mèo đậu trên nóc khám Chí Hoà kêu suốt đêm?
Mỗi lần đám cú mèo kêu ông già ra ngoài vườn lượm đá ném để xua đuổi chúng bay đi chỗ khác. Nhờ may mắn có ông thầy Năm Đạt, ông trước đây là thầy giáo làng, ổng có bằng đíp-lôm thời tây cũng hành nghề thuốc nam. Ổng đến gặp ông già mình và nói " thằng nhỏ có lẽ không còn sống được bao lâu. Mọi phương cánh thầy-ba mình cũng đã lo cho nó rồi. Thôi thì phước chủ may thầy. Tôi chỉ còn phương thức cuối cùng may ra cứu được thằng bé" Nói xong ổng kêu ông già bế thằng bé ra ngoài để ổng lể. Lể trong đông y thời đó là dùng mảnh sành sạch cắt lên da đứa em mình. Cắt chỗ nào ổng dùng tay nặn máu chỗ đó. Ổng bảo là máu thằng nhỏ có màu đen? Lể đau đớn vậy mà thằng em mình chả hề khóc tiếng nào, đơn giản vì thằng nhỏ quá yếu để mà có phản ứng lại với đau đớn.
Sau khi lể xong, Cậu Năm Đạt-mình kêu ổng bằng cậu về phòng mạch bốc cho thằng nhỏ một thang thuốc. Ổng nói với ông già sau ba thang mà thằng nhỏ không ngồi dậy ăn cháo thì tôi cũng đành bó tay! Ơn trời sau ba thang thuốc của ổng thằng em mình hồi phục và khỏi bệnh hẳn. Thằng em khỏi bệnh bà già đến quỳ lại cậu năm rồi oà khóc nức nở!
Ông thầy năm Đạt người ốm như que củi, chỉ ăn chay trường. Trong nhà ổng cực kỳ sạch sẽ, ổng sống thanh tịnh. Cứu người nhưng ai đưa tiền ổng đều không nhận và cực kỳ khó tính. Ai có bệnh đến mà có thái độ không phải là đuổi về không điều trị. Thường người bệnh đến điều trị chỉ cần trả công cho ông Năm bằng cách hái mấy cây thuốc mọc hoang về rửa sạch, bỏ bao đem đến để ổng làm thuốc. Mỗi tuần ổng đóng cửa một lần, dắt chiếc xe đạp đòn dong đi kiếm thuốc khắp các vườn trong làng. Vườn nhà mình rộng lại còn khá hoang hoá nên hầu như tuần nào cũng thấy cậu năm lúi húi đào xới để tìm thuốc. Bà già mình thi thoảng có đồ ăn đem biếu nhưng ổng không nhận, phải lén lút đưa cho mợ năm. Ổng mà biết được mợ năm nhận đồ biếu của ai là ổng đánh dữ lắm.
Cậu năm có ba người con, nhà không có ruộng vườn chi cả mấy người con của cậu năm cũng làm thuê, làm mướn trong làng, mợ năm cũng làm thuê. Ba mình hay kêu mợ năm làm cỏ vườn. Bà có tâm rất sạch, nghèo khó vậy mà không bao giờ sơ múi bất cứ cái gì của ai. Làm vườn nhưng hễ thấy trái cây trong vườn rụng, bà đều lượm rồi đem vô cho má mình.
Mỗi khi làm vườn bà năm đều bới cơm đem theo. Buổi trưa của bà thường thấy là muối mè, và ít rau dại hái trong vườn. Khi nào ngon lắm có cái trứng luộc hoặc miếng đậu hủ kho nhỏ xíu!
Anh con lớn của mợ năm tên là Bé Ba, anh này trước đây đi lính chế độ cũ, bị thương nên sau khi về làng thay đổi tính tình suốt ngày nhậu như hủ chìm. Anh năm con út đi bộ đội ở Campuchia bốn năm mới về làng dắt theo cô vợ người Campuchia. Về được năm ngày trở lại Cam rồi biệt tích luôn từ đó.
Chị Bé Tư yêu một người làng khác dắt về nhà giới thiệu cậu Năm không đồng ý. Nghe nói chị khóc hết nước mắt năn nỉ mà ông già cũng không thay đổi quyết định. Bỏ nhà theo trai và biệt tích luôn từ dạo đó. Người trong làng không ai còn thấy chị trở về vì nghe nói cậu Năm đã từ chị và thề độc "tao có chết mày cũng đừng có trở về mà chịu tang". Tội nghiệp mợ năm phận đàn bà cam chịu, bà ngày ngày lầm lũi như chiếc bóng. Ngày ngày đi làm thuê mua gạo để nuôi ông thầy thuốc thanh bần!
Cậu Năm Đạt mất không thấy bất kỳ đứa con nào về chịu tang ông ngoài anh Bé Ba ngồi cạnh quan tài say ngất ngưỡng. Cậu năm mất bà Năm cũng bỏ làng đi ra chợ Sa Đéc ăn mày, bà già yếu quá không ai còn thuê. Ông già mình bảo mợ năm lang thang đi ăn xin thấy đau lòng làm sao!
Bà năm chết vào một ngày mưa khóc lóc tháng bảy. Bà chết không một giọt nước mắt khóc thương nào nhỏ xuống cho bà. Ngày bà chết nghe đâu hội từ thiện cho cái hòm bằng ván gòn, người ta liệm bà trong áo quan rồi đem thiêu. Anh bé ba giờ không còn uống rượu nữa mà hành nghề chạy xe ôm. Ông già thi thoảng có gặp ngoài chợ Sa Đéc. Mỗi lần gặp ảnh hỏi thăm mình "thằng Cu nhà chú giờ làm gì sao không giúp gì được cho chú hay sao mà chú già rồi còn phải đạp xe đạp đi chợ cực khổ vậy chú!?" hic
Nước mình sắp được lên thiên đường tới đít rồi, con người ai cũng có quyền chọn cho mình cảnh khổ để hưởng sái nghĩ thiệt là nhân văn và độc đáo lạ thường! Ai chưa một lần lâm vào cảnh khổ cũng nên thử tham gia vào đám người cùng khổ một lần để nếm trải cay đắng mùi đời cho biết, kẻo sau này có muốn khổ, muốn chết chẳng còn dịp nữa, bởi rồi tất cả chúng ta đều sống mãi như tiên ông Bành tổ đó thôi!

Cậu Ba Thạch.

Ông bà ngoại gốc người Làng Thượng văn khi xưa. Làng bị thuỷ phá nặng nề là do nằm dọc sông Tiền. Thực ra hồi trước vùng đất này là cù lao gồm có nhiều làng nhỏ. Cù lao này nối với đất liền qua cây cầu nhà Thương để bắc qua nhà thương Sa Đéc do pháp xây dựng tại làng Tân Hưng. Cầu này sau giải phóng bị thuỷ phá, lở xuống sông luôn, bệnh viện Sa Đéc cũng chịu chung số phận!
Sau thời gian dài bị thuỷ phá làng Thượng Văn, dân vùng này mới tìm về làng An Hiệp sinh sống trong đó có ông bà ngoại mình. Nhờ chịu khó lao động nên ông bà ngoại cũng tích tụ ruộng đất kha khá. Thời tây ông ngoại cũng thuộc nhóm điền chủ. Vì thế khi ông ngoại dời về làng An Hiệp thì cũng đồng thời kéo mấy người tá điền nghèo, trung thành về cùng với ông, và cả cùng với một số bạn bè của ông ngoại khi xưa ở làng Thượng Văn. Đem họ về thì dĩ nhiên cũng phải cho đất cất nhà tá túc tạo thành một cái xóm nhỏ độ chừng chục nóc gia.
Nhà ông ngoại là điền chủ nên là nhà to nhất trong xóm đó, xung quanh bao gồm các tá điền nghèo, mấy người bạn bợm, bạn câu, bạn đánh bài  nhận đất canh tác của ông ngoại, họ chỉ đóng huê lợi nhỏ hằng năm.
Bởi chẳng lạ, sau năm 75 gia đình nghèo khó của mình về đây được người làng cưu mang và giúp đỡ thật nhiều. Nào là giúp dựng nhà, cho mượn hạt giống gieo trồng cho các vụ mùa mới, hướng dẫn kỹ thuật trồng trọt, cách lật đất phơi khô diệt cỏ dại, bón phân tưới nước và cả giúp luôn việc thu hoạch ra sao, giúp kêu mối lái, giúp bán buôn,...
Hồi về cất nhà trên mảnh đất xưa từng là nhà của ông ngoại, nghe nói cái nhà to ấy cậu hai dỡ đem xây dựng nhà máy lúa bên làng An Tịch. Công việc bết bát thế nào mà bỏ hoang luôn! Cạnh ngôi nhà gỗ của mình là nhà của ông Hai Thủ. Ong già có thú câu cá bông lao trên sông tiền. Mỗi lần thấy ông hai Thủ đi câu trông cực ấn tượng. Dụng cụ đồ nghề bao gồm một cái cần trúc đen nhánh, một cái giỏ đan bằng tre được cột thắt ngang hông, dầu đội nón là và cả một ấm trà nhỏ. Cứ thế ông già đi câu suốt cả ngày ngoài bờ sông không cần ăn gì cả. Thi thoảng ông tợp ngụm nước trà, bập điếu thuôc rê vấn bằng giấy báo.
Có lần ông già câu được con cá bông lao nặng gần 8 ký lô. Đám trẻ trâu như mình cứ mà mơ mãi có ngày cũng được con cá bự tổ chảng kia. Mình cũng ham câu nhưng chỉ toàn là cá bé!
Ông hai Thủ sống rất nhàn hạ. Cả ngày ông chỉ ngồi ở bộ tràng kỷ uống tràl, chỉ dạy đám con cháu các công việc nhà. Mẹ mình bảo ông hai Thủ là bạn đánh bài của ông ngoại. Ông thường cùng ông ngoại đi đánh bài ở mấy dịp cúng đình, giỗ chạp trong làng. Ông làm công việc tay hòm chìa khoá cho ông ngoại. Mỗi khi thấy ông ngoại đánh bài thua tan tác thì ổng không xuỳ tiền ra nữa và úc đó ông ngoại cũng phải biết đứng lên mà đi về! Có lẽ vì quý cái tình này mà ông ngoại đem ông hai Thủ từ làng Thượng Văn về ở cùng? Tính ông hai cũng hiền, lúc nào gặp ổng cũng phì phèo trên môi điếu thuốc vấn ướt nhẹp. vừa nói vừa ho sặc sụa vì khói thuốc. Tóc ông bạc trắng, hai lỗ tai dảo to và hướng về phía trước. Người ta bảo tướng này thông minh và khôn đáo để.
Ông hai có năm người con, hai trai ba gái. Bất hạnh nhất và nghèo khó nhất là cậu ba Thạch người con thứ ba của ông hai. Người trong làng đồn rằng hồi xưa khi cậu ba đi lấy mợ ba, người tỉnh Kiến Phong-Cao Lãnh bây giờ, ông hai có đến nhà để thăm hỏi tình cảnh của bên vợ cậu ba. Người ta bảo bên mợ ba có bệnh điên di truyền. Ông hai biết được tin này nên quyết liệt ngăn cản cậu ba lấy mợ ba. Nghe đâu vì cấm cản mà cậu ba đòi tự vẫn. Thương con ông hai nuốt đắng vào trong, dựng vợ gã chồng cho cậu ba!
Câu ba và mợ ba có với nhau năm người con, bốn trai một gái. Ông hai đặt con theo vần mà ông nghĩ rồi cuộc đời chúng sẽ lanh lẹ. Đá, Bế, Danh, Lanh,Lẹ. Rủi thay lanh lẹ đâu không thấy mà cậu ba nhận được ba thằng con trai đầu đều bị ngớ ngẩn. Riêng chị Bế và thằng út Lẹ may mắn bình thường...để chứng kiến nỗi đau phiền muộn của gia đình. Mợ ba có lẽ là người đau khổ hơn cả. Bà lúc nào cũng mang khuôn mặt sầu khổ vì đã đẻ cho gia đình ông hai đám cháu nội đích tôn đáng buồn như thế!
Anh Đá lớn hơn mình khoảng năm hay sáu tuổi gì đó. Dù tính tình ngớ ngẩn nhưng anh là người cực kỳ sạch sẽ. Lao động giúp cậu ba hết sức chăm chỉ. Nhà cậu ba ngoài thửa ruộng đâu khoảng chục công, mỗi năm trồng một vụ lúa thơm cấy hai lần, cũng thừa gạo để ăn trong gia đình. Ngoài ra nhà cậu ba còn có nghề làm bột gạo nuôi heo. Bột gạo Sa Đéc nổi tiếng vì ngon. Từ bột này mà người ta làm ra bún, hủ tiếu,...
Anh Đá sáng nào cũng thức sớm cho heo ăn rồi xay bột cho cậu ba. Mỗi sáng một mình anh xay 40 chục kí gạo ngâm. Xay xong thì mợ ba bồng bột trong túi vải, anh cho heo ăn và tắm heo. Chuồng heo anh Đá chăm sóc sạch như trong nhà. Đám heo ở trong chuồng da con nào cũng bóng lưỡng, sạch sẽ chẳng dính tí phân. Công việc cứ thế quần quật cả ngày. Tầm khoảng 4 giờ là anh xuống sông tắm gội sạch sẽ, mặc vào người cái áo sơ mi được anh xếp gọn cẩn thận, lót dưới gối nằm cho thẳng thớm. Xong xuôi đâu đó anh thả bộ ngang qua nhà mình đến ngồi lên gốc dừa xiêm nghiên xuống bờ sông, nơi phía bên kia là nhà chị Nghị con bà Tám Xê.
Chị Nghị con gái đầu lòng của bà Tám xê và ông tám mù. Tướng chị Nghị tròn lẳng, làn da con gái miệt vườn trắng hồng, ẩn bên dưới lớp áo bà ba là cặp vú con gái đương thì tròn trịa.
Anh Đá ngẩn ngơ, thiểu năng trí tuệ, ăn nói cà lăm đem lòng yêu chị Nghị. Chiều nào tầm 5 giờ chị Nghị đều xuống sông tắm táp.
Hồi đó con gái làng tôi ai cũng tắm sông, người ta nói nước sông Tiền làm cho da con gái vùng Sa Đéc-Nha Mân trắng mịn màng. Có lẽ nhờ dòng phù sa quý giá bao đời chứa nhiều khoáng chất cũng nên? Anh Đá cứ mỗi khi đến đó là lôi bọc thuốc rê ra vấn một điếu thiệt to. Móc cái hộp quẹt đá lửa, xạch xạch vài cái rít một hơi dài sảng khoái, đôi mắt lim dim hướng về cầu bến sông chờ đợi giây phút thần tiên-chị Nghị đi tắm. Anh Đá nhìn chị nghị tắm thi thoảng rít đầu thuốc đỏ rực trong bóng chiều hoàng hôn chạng vạng. Ngồi lặng lẽ nhìn bất động tợ như bức tượng đá người đàn ông trần truồng chống cằm ngồi trên hòn đá suy tư của danh hoạ Michelangelo. Thoạt đầu, chị Nghị cũng chả thèm để ý gì chuyện cái anh khùng ngồi đó vì phần là thơ ngây con gái miệt vườn!
Một hôm có ông già ba Tiếu cắc cớ đứng sau thò tay bóp chim lúc anh Đá đang trầm tư, phát hiện cái của nợ anh Đá sưng chỏng vó. Ông già la lên "thằng Đá nó mê con Nghị rồi". Sau cái đận tẽn tò ấy chị Nghị mới biết cái nguyên cớ gì khiến anh Đá ngồi đồng bên gốc dừa mỗi chiều buông! Từ dạo ấy, anh Đá ghét cay ghét đắng cái ông già ba Tiếu đã làm anh xấu hổ. Chị Nghị cũng cẩn thận hơn, chỉ tắm khi nào không có cái mặt anh Đá si tình. Người làng bảo con gái mà bị thằng ngớ ngẩn yêu sẽ làm mất duyên con gái. Không biết có đúng không, có điều chị Nghị giờ vẫn mãi phòng không lẽ bóng, chậm chạp đi qua thời gian phiền muộn cô đơn!
Một sự kiện nổi đình nổi đám nhất làng nghèo mình thời đó là việc cô sáu của anh em nhà Lanh Lẹ lấy chồng. Cô sáu làm thư ký cho một công ty thương nghiệp ở Vĩnh Long. Chồng cô sáu là một chú bắc kỳ nhà quê đeo quân hàm trung uý. Dượng sáu tướng ta xấu xí, mặt sắt đen sì sì tợ Hà Tôn Hiến, chằng chịt những vết sẹo lồi trông thật hung ác. Những vết sẹo đó theo lời bà hai là dượng sáu bị thương thời chống Mỹ!
Ngày dạm hỏi cô sáu có cả một đoàn các chú bộ đội xí xào giọng chi cực khó nghe. Ông hai Thủ và bà hai cũng như cả đại gia đình anh em Lanh Lẹ vui đáo để. Thằng Danh, thằng Lanh suốt ngày khoe về dượng sáu tao làm lớn lắm. Dượng sáu tao có cây súng lục dắt hông thiệt là oai. Bà hai mừng, vì giờ gia đình nông dân mình đã bắt đầu có sợi dây liên kết với cách mạng 30 thiệt là sang. Bà hai đi đâu cũng khoe thằng rể bắc kỳ mà trong lòng vui lắm thay!
Thời ấy đâu đầu thập niên 80 thì phải, cả làng nghèo xơ như mít lép. Đám cưới cô sáu quả thật là chuyện quan trọng đáng xem cho cả làng. Nhà ông hai trước bàn gia tiên dán hai biểu ngữ màu đỏ "Vui duyên mới không quên nhiệm vụ" "Gái chính chuyên chỉ có một chồng". Thiệt là lạ lùng với người làng!?
Thời gian vật đổi sao dời, làng tôi ngày càng bị thuỷ phá nặng nề. Làng vốn nghèo càng nghèo hơn. Đất đai là công cụ sản xuất bị hà bá lấy sạch. Nhà ông hai cũng chẳng nhờ vả chi thằng con rể cách mạng. Ông hai và bà hai lần lượt qua đời mà lòng cứ đao đáo về đám cháu nội đích tôn dỡ người.
Chị Bế chết vì bệnh tim để lại hai đứa con cho nhà chồng chăm sóc. Mợ ba chết sớm vì phiền muộn kéo dài. Thằng Lẹ học hành rất giỏi nhưng ham chơi và buồn nản chuyện gia đình nên bỏ học.
Tết vừa rồi về có ghé thăm cậu ba Thạch. Cậu rất yếu, chỉ ngồi một chỗ. Thằng Lẹ quanh quẩn ở nhà chăm sóc ba nó và lo cơm nước cho mấy anh. Anh Đá rồi cũng nguôi ngoai chuyện chị Nghị, ngày ngày ra ngôi chợ đầu làng làm thuê vác mướn. Tính anh thiệt thà, ra ngoài đó người ta sai vặt  rồi trả cho chút đỉnh công xá. Ngày có khi anh kiếm được cả trăm ngàn, ít đồ ăn người ta cho.
Anh Đá có hiếu lắm, cậu ba  bảo làm có nhiêu đem về đưa hết cho ổng. Sáng chỉ ăn cơm hâm nóng lại rồi đi làm. Trưa nếu ngoài đó người ta cho gì thì không về. Chiều tối chạng vạng anh mới về nhà tắm rửa ăn bữa cơm chiều.
Thằng Lanh suốt ngày lang thang đầu trên xóm dưới đi nhặt chai bao. lội bùn sình để nhặt nhạnh chai nước khoáng trôi sông. Nhặt nhạnh cả ngày nó đến mấy điểm thu mua ve chai bán được chừng 15-20 ngàn đồng ....để đi mua rượu, ít mồi nhắm. Có rượu, có mồi nó mò về mấy cái sạp ngoài chợ ngồi uống rượu một mình, rồi ngủ luôn ngoài đó, không tắm rửa, không về nhà. Thằng Lẹ bảo chỉ khi nào đói quá nó mới mò về nhà để kiếm ăn. Bằng không chẳng bao giờ về nhà. Mỗi lần mình về thăm quê gặp thằng Lanh nó mừng lắm vì xin được tiền mua rượu uống cả tuần!
Cách nay độ một tháng cậu ba rồi cũng qua đời nốt. Thằng Lẹ một mình côi cút cùng đàn anh dỡ người. Nó bảo em cũng thèm kiếm một con vợ, xấu xí cũng được cho đỡ cô quạnh mà có ai thèm đâu anh! Họ nhìn vào dòng dõi khùng nhà em ai cũng ngán và sợ hết trơn. Thôi em ráng sống mà lo cho mấy ông anh. Khổ nỗi, thằng Lẹ sức khoẻ lại kém hơn mấy thằng anh hoang dại mới chết chứ! Người thằng Lẹ mỏng dính như tờ giấy, lại bị ho lao vì trác táng sớm!
Lỡ mà em chết lấy ai chăm sóc đàn anh bệnh tật của mình. Nó bảo xã mỗi tháng cũng có cho đâu được 400 ngàn. Dù gì khoảng tiền này cũng đủ mua gạo xơi trong tháng. Thằng Lanh có ăn gì đâu, uống rượu thay cơm. Thằng Danh như triết gia. Cười đời, ngoác miệng chẳng còn cái răng nào!? Nhớ cái chuyện anh em nhà Lanh Lẹ hút thuốc cũng lỗi bội phần bởi ông nội em. Ông bảo, tụi mày chẳng thằng nào đánh răng, thôi thì hút thuốc cho đỡ thúi mồm!?
-Thiệt là cám ơn an sinh xã hội ở nước ta quả là gấp vạn lần xã hội tư bản. Mình nói thế, thằng Lẹ nó nhìn mình rồi bảo "anh Cu có vẻ cũng điên giống mấy ông anh em rồi đó!" Nói xong nó cười buồn, đưa tay rót ly rượu đối ẩm uống nhạt, cười khang một mình!

Thứ Sáu, 18 tháng 7, 2014

Đời hát rong.

Xóm mình cũng thuộc xóm vùng ven nghèo kiết xác ở đất Sài Gòn này. Trong xóm có gã Pê đê cũng nghèo kiết xác. Sáng nào mình cũng thấy gã đi bộ ra ngoài đường để ăn sáng. 
Gã vốn đen đũi nhưng thích làm phụ nữ nên lúc nào tóc cũng để dài. Ngực thì phẳng lì như phi trường, phải dùng cái nịt vú hàng tàu để độn lên cho có vẽ nữ tính. Chân to bè, các móng sơn xanh đỏ loè loẹt, mang đôi dép lào loẹt xoẹt. Mặc áo thun hở cổ để khoe tí khe cạn cợt "đàn bà" đáng thương!
Nghề của gã là rài đây mai đó các đám ma, đám cưới nghèo vùng quê để biểu diễn đàn ca, hát xướng nhảy múa mua vui cho các thực khách trai làng sau khi đã nốc rượu say khướt.
Gã bảo ngực Pê đê như em vào mấy chổ này hát ưa bị chửi vì mấy thằng nhậu say mò mẫm hổng thấy vù mớm đàn bà. Mỗi lần đi hát mấy đám này thù lao cũng chẳng là bao.
Gã nói phải chi có tiền, em đi thẩm mỹ viện độn vú cho thiệt to. Pê đê càng hấp dẫn ngoại hình chừng nào đi hát mới có chút đỉnh tiền boa. Bằng không có đêm hát về hai ba giờ sáng không có cả tiền đổ xăng, bụng rỗng chỉ toàn là rượu đế.
Hồi hôm trời mưa to, tầm lúc 20 giờ, hắn ghé tiệm tạp hoá mua áo mưa phương tiện 5 ngàn. Hỏi gã đêm nay em đi hát ở đâu. Gã đáp: Đêm nay em đi hát đám ma ở Bùi Môn Củ Chi.
Mưa to quá thôi ở nhà một đêm với lại xa quá, đi đường nguy hiểm lắm. Gã bảo, mấy đêm rồi có đám nào đâu. Hôm rày không có cả tiền ăn sáng, mua son phần để trang điểm. Nghe thằng bạn kêu đêm nay đi hát, mùng quýnh, phải mượn con xe tàu để đi. Kiếm đồng tiền bây giờ cực khổ lắm.
Khoác lên mình chiếc áo mưa phương tiện, Nàng ngồi lên con xe tàu không quên vén vạt áo dài màu vàng chanh xuống đít ngồi,hì hục đạp máy xe. Chiếc xe gầm lên mất hút vào đêm tối, để lại vệt khói trắng dầy đặc trong màn mưa bụi mờ. 

Nhìn bóng nàng xa dần mà xót xa thân phận con người!

Mưa Sài Gòn.


Quán cóc của chị chiều nào cũng đỏ lửa khắc khoải niềm hy vọng mua may bán đắc. Ngày ngày chị hì hụi đẩy chiếc xe canh bún trên con đường nhày nhụa, lổm chổm ổ gà ổ trâu. 
Mỗi mình chị chiếc xe với thùng nước lèo kẽo kẹt, nặng nhọc chậm chậm một cây số đường mưa-người đàn ba hai con và gã chồng đốn mạt chỉ biết bản thân mình hơn là cái gia đình nhỏ nghèo khó của y. 
Lặn lội một mình ngoài đường phố mưu sinh. Ngày nắng hay ngày mưa, cạnh dốc chân cầu Bến Phân, miếng bạt che mưa, chiếc đèn compact nhỏ xíu, câu nhờ từ nhà dân gần đó. Vài cái ghế con con dành cho thực khách lót dạ đường khuya.
Chị bảo mỗi đêm nếu trời không mưa thì bán được chừng 200 ngàn. Đêm nào trời mưa thì ít hơn. Còn nếu mưa lớn quá thì hẳn là chị ngồi bó gối thu lu chờ khách cho đến tận khuya. Có đêm chị đẩy xe về qua ngõ nhà mình quá 12 giờ!
Sài Gòn hôm nay mưa kéo dài khủng khiếp. Mưa từ tầm 5 giờ cho đến tận giờ này, mưa như trút nước, đường phố biến thành dòng thác tuôn chảy ào ạt. Quán cóc của chị đêm nay không một bóng người. Nồi nước lèo vẫn bốc khói nghi ngút. Miếng bạt quá nhỏ để có thể che chắn cho khách lỡ đường lót dạ đêm khuya. Gặp chỉ đẩy xe về, vừa đi vừa khóc. "Chiều giờ không bán được tô nào chú ơi! Thùng nước lèo ế đêm nay coi như đổ bỏ. Vốn liếng chẳng là bao mà Sài Gòn cứ mưa mãi thế này chắc mấy mẹ con chết đói quá chú à!"
Bóng chị đổ dài trên con đường mưa vàng ệt như bóng thời gian tận cùng khổ đau của xã hội nhầy nhụa bóng thiên đường!

Thằng Què.

"Ví dầu tình bậu muốn thôi. Bậu gieo tiếng dữ để rồi bậu đi. Bậu đi bậu lấy ông câu. Ông câu cá bống để dành bậu ăn. Bậu ăn không hết để dành, để trên áng sách, để đầu áng thơ!". Văng vẳng nhà bên tiếng ru hời câu ca dao nam bộ thuở nào của người mẹ trẻ trong căn nhà lá rách nát tả tơi. Nàng ngồi bất động. Mầm sống đang yên lành ngon giấc. Thi thoảng thằng nhóc chép miệng, nhoẻn cười sau cử bú no nê từ bầu sữa căng tròn của mẹ nó. Hàng xóm quê mình bảo ba nó bận đi tù vì tội giao cấu với trẻ vị thanh niên-má nó. Nên bỏ má nó từ trước khi thằng nhóc chào đời trong bệnh viện. Rồi thằng nhóc sẽ lớn lên. Hẳn nó sẽ cùng với má nó, cùng với cái nghèo muôn kiếp xứ mình lê la cùng năm tháng. Không biết rồi người mẹ son sắc ấy có đi bước nữa để tìm kiếm nửa còn lại mà mình ảo tưởng. Nửa còn lại san sẻ gánh nặng cuộc đời mà em mong ước!? Người mẹ chỉ vừa tròn 17. Cái tuổi còn quá nhỏ để hiểu khó khăn còn rất nhiều phía trước, cùng những cạm bẫy chực chờ và trách nhiệm cho thằng nhóc yên lành khôn lớn!?
Thằng Què, cả ngày ngồi yên lặng bên ngạch cửa nhà ngóng ra đường. Thi thoảng nó nhìn xuống đôi chân teo tóp như hai que củi nhỏ bất động, rồi ngước mắt nhìn bầu trời mây xám đùng đục những ngày mưa mù. Nó yên lặng ngồi chờ đợi ba nó gửi tiền về cho ông bà nội nghèo khó. Nó chờ đợi ba nó về cùng với đứa em lành lặn mà đã nhiều năm nó không gặp. Nó cần tình thương của ba nó hơn là suốt ngày bất động trong ngục tù của ngôi nhà. Nó hiểu nó mồ côi trong chính ngôi nhà mà ông bà nội nghèo khó đã phải buộc lòng cưu mang nó. Trong cái nhà rách bươm này ai cũng muốn nó chết đi. Sự sống mệt nhoài và tật nguyền của nó hẳn là gánh nặng nợ đời hơn là một cái gì khả dĩ nó sẽ đền đáp khi khôn lớn về sau!?
Ông nội nó là gã đàn ông gầy guộc và đen đúa. Nhìn ông nội nó trong làn bụi mờ ở họng thải trấu nhà máy xay lúa, người ta có cảm giác như gã là cây tràm cháy đen gầy guộc đang còn nhả khói.
Tuổi của ông nội nó chỉ áng chừng năm mươi. Nhìn dáng của người đàn ông nghèo hèn, bước đi xiêu vẹo,nhọc nhằn mưu sinh mới thấy con người bất lực và khốn nạn ra sao để có thể tự nuôi sống bản thân mình cho thật đàng hoàng và tử tế, khi vốn sinh ra trong truyền thống nghèo hèn. Cho dẫu cái xã hội mà ông ấy thụ hưởng vốn ưu việt vạn lần!!!
Nghèo đói và bệnh tật luôn là cặp bài trùng. Do làm trong môi trường nhiễm bụi silic-nhà máy xay xát lúa, ông nội nó bị nhiễm bệnh bụi phổi khá nghiêm trọng. Đau đớn và sợ nhất là mỗi khi nghe ông nội thằng Què ho. Mỗi lần ho, tiếng ho đùng đục phát ra từ cái cổ đầy đàm nhớt đặc quẹo, kéo dài kỳ lạ. Khi ho, ổng ngồi co quắp. Dường như tất cả các cơ trong tấm thân thần chết của ông được vận dụng để tiếp sức cùng với cơn ho tàn nhẫn.
Công việc hàng ngày của ông nội nó là lấy chiếc ghe cùng với bà nội nó đến các nhà máy xay xát trong vùng để thu mua mớ bã trấu vụn lẫn cám và tấm về sàng sẩy lọc ra chút tấm, cám để bán cho mấy nhà nông nghèo khó trong vùng nuôi heo, gà vịt,...cải thiện thu nhập ngoài chuyện đồng áng, làm thuê quanh quẩn trong vùng!
Chiều về ghe cặp bến. Ông nội nó khó nhọc vác từng bao trấu lên bờ để bà nội bắt đầu công việc sàng sẩy. Thằng Què quá ốm yếu nên chả giúp gì được, thành ra lại là cái gai trong con mắt bà nội hồi xuân đĩ thoả và ông nội bắng nhắng vì nghèo khó và bệnh tật. 
Mỗi ghe trấu đầy khoảng độ hai chục bao trấu to. Cứ vác xong một bao ông nội nó phải ngồi nghỉ 5-10 phút để thở và...ho! Mỗi lần nhìn cái xác quắt queo ho đứ đừ. Bà nội nó chỉ nhìn vô cảm và thở dài ngao ngán. Ả thi thoảng liếc vào màn hình chiếc điện thoại đầy tin nhắn sặc mùi tình dục của gã người tình nào đó!? Mặc xác lão đang hục hặc ho, ả chỉ mãi chăm chú nhắn tin cho người tình!
Bà nội nó kém ông nội nó vài tuổi. Cặp vú to đùng, đầy đặn ẩn đằng sau chiếc áo bà ba kín cổ. Dáng người tròn lẳng lơ, phốp pháp. Cái tuổi hồi xuân đàn bà cạnh gã chồng gầy đét hẳn chả còn chút hứng thú dục tình. Tìm thú vui nhục dục âu cũng là bản năng sống tự do duy nhất mà con người còn có cơ may sở hữu ở xã hội điên khùng này!
Quần quật cả ngày, thu nhập của ông bà nội nó chỉ độ 100 ngàn. Tất tần tật khoản thu nhập nghèo khó đó cộng với sàng sẩy mớ gạo vỡ hạt to để nấu cơm. Thằng Què quanh năm suốt tháng chỉ ăn thứ cơm đó. Nhà thằng Què cạnh cái quán tạp hoá có gã chủ kiệm lời, bủn xỉn. Sáng sáng người ta thấy thằng Què ngồi nhìn sang cái quán. Trong ánh nhìn phiền muộn vì mồ côi, vì thiếu tình thương và cả vì thèm khát mớ bánh treo lủng lẳng trêu ngươi thằng Què.
Nhìn chán tiệm tạp hoá và mớ bánh kẹo thèm khát. Thằng Què ngó ra đường nhìn lũ trẻ hàng xóm vui đùa ngoài hẻm, nhìn lũ trẻ đến trường. Nó cũng thèm được đến trường, thèm được vui chơi như chúng bạn cùng lứa. Chẳng đứa nào muốn kết bạn với nó. Cô đơn ngày nối tiếp ngày với nó như là thứ định mệnh tàn nhẫn gắn liền với số phận Thằng Què.
Dạo gần đây mấy nhà máy xay lúa trong vùng lắp đặt thiết bị xay ngày càng hiện đại hơn nên cái công việc mót tấm cám của hai ông bà nội nó ngày càng què quặt hơn vì  có rất ít tấm còn sót lại. Nhiều khi cả ngày sàng sẩy bụi bặm mà cũng chỉ kiếm dăm chục ngàn. Ít việc, bà nội nó thường xuyên vằng nhà hơn. Ông nội nó phần túng thiếu, phần bất lực với bà vợ hồi xuân nên thằng Què trở thành đề tài chính cho sự chì chiết và đánh đập của ông nội nó và cả bà nội nó sau khi đĩ thoả trở về nghe tiếng bóng gió của lão chồng bệnh hoạn. Ba mình bảo ngày nào cũng nghe tiếng thằng Què khóc tức tưởi vì bị đánh đập. Thoạt đầu chỉ nghe thấy tiếng khóc nức nở và tủi hờn.
Con giun xéo mãi cũng quằng. Hôm rồi về thăm quê mình nghe tiếng thằng Què vừa khóc vừa chửi lại ông bà nội nó. Vừa bất ngờ, vừa xót xa cho cái tuổi còn bé xíu. Chỉ mới khoảng 7 tuổi, thằng Què đã biết sử dụng lại chính ngay cái ngôn ngữ thù hằn mà ông bà nội đã phang cho nó để đáp trả. Càng đánh nó càng chủi tợn, bởi nó không thể bỏ chạy mà chỉ ngồi một chỗ chịu đòn roi. Ông bà nội bực mình vì đã nhiều năm ba nó không còn gửi tiền về nuôi thằng Què bất hạnh. Nhìn thằng Què lê lết mà chẳng đỡ đần gì lại còn ăn hại. Khi không lại phải cưu mang của nợ nên mọi bực dọc đều trút lên cả thằng Què đáng thương! 
- ĐM mày là thứ ăn hại, sống chỉ chật đất. ĐM tiền của đâu nuôi cái thứ báo cô như mày!? Tiếng bà nội nó ong ỏng sủa. Thằng què đáp lại:
- Mai mốt này ba tao về, ba tao có nhiều tiền, ba tao sẽ đem tao theo. Tao chả thèm ở chỗ này nữa.
-Mày ở đó mà hy vọng cái thằng cha chết đường, chết chợ của mày. Nó bỏ mày như bỏ con chó ghẻ. Rồi thì tiếng thằng Què khóc vì tủi hờn. Trong lòng nó dẫu vẫn còn chút hy vọng rằng ngày nào đó ba nó sẽ về, sẽ mang nó theo cùng. Rồi thì nó sẽ được yêu thương, được đi học, được ăn cái kẹo nhà hàng xóm bủn xỉn kia bởi vì ba nó có thật nhiều tiền mua cho nó. Dường như cứ sau mỗi lần roi vọt, tiếng khóc vì tuyệt vọng ngày càng dài hơn. Có lẽ nó nghĩ "Không biết liệu ba nó có còn về đón nó không?"
Cách nhà thằng Què ba căn, ba năm trước đây cũng có thằng què cùng hoàn cảnh vì sốt bại liệt như nó nhảy sông tự vẫn. Ông già mình bảo thằng què con bà tư Chè chết vì bị bà tư chửi suốt ngày nên thằng nhỏ uất ức tự vẫn. Nửa đêm thằng què ra con sông trước nhà nhảy xuống. Sáng hôm sau người ta thấy xác thằng nhỏ tấp vào chân cầu. Bà tư Chè nhìn tướng sát phu hại tử, bẳng nhẳng vì nghèo khó. Suốt ngày lê la khắp các khu vườn bỏ hoang trong làng mình để hái rau, nhặt củi, hái trái cây. Nhà bà còn đứa con gái tên cô Xôi, không chồng người quắc như cành củi khô. Trước đây người ta còn thuê mướn làm gạch, giờ chả ai thuê mướn gì cả vì Xôi không còn sức khoẻ. Nghe đâu xã có trợ cấp cho gia đình bà tư Chè mỗi tháng 200 ngàn tiền minh tệ. 
Nhìn hoàn cảnh thằng Què mà nhớ chuyện thằng què bất hạnh trước đây, sao lo quá! Bước đường cùng tuyệt vọng có khi nào thằng Què rồi cũng làm cái chuyện dại dốt như thằng què năm xưa con bà tư Chè đã chọn!?
Một cánh tay nào vươn ra níu đời nó. Một cơ may nào cho thằng Què qua kiếp người bớt nhọc nhằn. Một ngày mai nào thằng Què thấy sự sống mới đẹp đẽ làm sao? Hay là cứ ngu muội cùng kiên định bóng thiên đường nhầy nhụa cuối cuộc đời!? Nơi lần lượt kẻ trước người sau về trong cõi chết khôn cùng! Nơi thời gian dừng lại, khổ đau, nghèo giàu, lành lặn hay tật bệnh,...chả còn ý nghĩa gì nữa, bởi tất cả chúng ta đều bình đẳng!
Què ơi! tụi mình không thể trông mong gì người lớn xây dựng một xã hội công bình bác ái cho mọi người. Nếu có chắc hết thế kỷ này? Thay vì vậy, tụi mình chờ đợi cái chết? Tao cũng biết, kiếp làm người của mày có phần khốn nạn hơn tao nhưng liệu tao không khổ đau kém mày?
Tiếng ru hời nào sẽ theo em đi đến cuối con đường!? Nơi tuổi thơ ngắn ngủi trôi qua trong yên lành của ngày xưa! 
Sài Gòn nửa đêm về sáng.