Hồi nhỏ ở làng mình có lão già dịch nghèo khó, ốm cà tong, cà teo.
Nghề kiếm sống của lão già ấy là đạp chiếc xe đòn dong đi bán đá lửa,
hột quẹt, dầu lửa, tim đèn,.. Lão nghèo đến nỗi quần áo rách bươm, đầu
tóc bạc phơ, râu để dài đến rốn. Trên người lão lúc nào cũng vận hai
cái áo rách như tổ đĩa. Cổ quấn chiếc khăn rằng màu cháo lòng sặc sụa
mùi thuốc lá, mùi mồ hôi đã lâu ít khi tắm.
Chiếc Xe đòn dong cà
khổ của lão chỉ là khung sắt hoen gỉ, chẳng còn ký ức màu sơn của một
thời. Cái vỏ xe còn kinh khủng hơn nhiều. Lão đi xe đạp không ruột. Để
có thể chạy được trên con đường làng gồ ghề, lão cập nhiều lớp vỏ vào
rồi dùng ruột cao su quấn thật cẩn thận. Giống như thời nay người ta
dùng bánh cao su đặc để đẩy xe cút kít vậy?
Đồ nghề kiếm cơm độ nhật của lão là chiếc túi thầy tu màu vàng bạc phết được treo cẩn thận ở đằng trước tay lái.
Hàng
ngày lão đạp xe khắp làng trên xóm dưới bán cho mấy bà nông dân, thanh
niên, mấy cụ già,... cà khổ sau thời hậu chiến tranh miền nam mua để
nhúm lửa, đốt thuốc rê,..
Lão già được dân trong xóm đặt biệt
danh ông già be he vì cái tật dê lộ liễu, và câu rao hàng danh bất hư
truyền của lão. Thời ấy lão đâu chừng 70 cái xuân xanh. Mỗi khi rao bán
hàng lão thường nói "Ai mua quẹt, đá lửa, tim đèn không, be he he e
e...."
Mấy bà nông dân trong xóm rất ngại khi phải mua hàng của
lão vì cái tánh dê chẳng nể nang ai. Gặp mấy bà "hôm qua đi nhận xác
chồng" lão lại càng dê tợn! Bà nào sống một mình, tính tình lẳng lơ là
lão xáp tới mò vú ngay.
Hồi ấy trong xóm có mợ Năm Giòn, chồng
chết trận năm sáu tám. Mỗi lần đạp xe qua đây, lão cố tình dừng lại
thật lâu để mong nhìn thấy mợ!?
Mợ năm có bốn người con. Mợ còn
trẻ, tướng người thắt đáy lưng ong. Mợ có cặp vú đầy đặn chết người. Ba
chồng sợ mợ đi bước nữa nên bắt mợ ăn trầu, mặc quần đáy nem trông sao
cho già quéo đi!
Cứ mỗi lần đứng đấy, tiếng rao của lão càng
khiêu khích hơn. Ông năm Điểu-cha chồng mợ căm lão lắm. Có lần ổng chửi
lão một trận. Từ đó lão cạch không dám nhìn mợ nữa. Mỗi khi đạp xe qua
lão chỉ thở dài, rồi rao mà không đệm vào từ be e heeee ở cuối câu!
Dân
làng bảo, hồi nhỏ lão tu hành đạt phẩm hạnh thuộc hàng cao quí. Nghe
đâu đã từng làm trụ trì chùa ở hàng nhất phẩm. Tiếc thay vì vận số, vì
tục luỵ mà lão cựu sư cụ không giữ được mình. Hồi trẻ người ta bảo lão
đẹp trai, lại có tài ăn nói nên thí chú đi chùa cúng dường chư phật,
thành tâm xám hối, cầu nguyện an lành đâu không thấy, chỉ thấy sư cụ
thò lỏ dòm như chó nhìn cứt trôi sông lòng thòng nhễu nhại, thèm thuồng
vụng trộm!
Phật tử đàn bà tới chùa ngày rằm hay đêm sáng trăng
chỉ thấy thầy áo mão chỉnh tề, đọc kinh tụng niệm. Đám con nhang xì sụp
khấn vái. Tàn buổi cầu kinh phật tử quay về nhà, đẫy giấc cho buổi
đồng áng ngày may.
Sư cụ lủi thủi hào hứng lui về hậu liêu cùng với thí chủ cúng "giường chiếu", đàm luận phật sự cùng lão.
Tiếng
"lành" đồn xa. Mấy lão nông tri điền nổi giận rình mò, vớ bẩm sư cụ
đang mây mưa tìm chốn cực lạc chẳng qua tu thiền, kinh thỉnh chánh
niệm. Đám nông dân nổi giận tận cho sư cụ thức tỉnh bằng côn sắt và nắm
đấm. Đuổi cổ sư cụ trần truồng lỏng nhỏng chạy tít ra đồng.
Từ
ấy, sư thôi không còn tu hành chi nữa. Đổi lại cho nỗi buồn thất sũng
vì chuyện gái gú. Sư dùng dao chặt đứt cái của quý mà vì nó khiến con
đường tu nghiệp giải thoát cái khổ, chấm dứt kiếp luân hồi nửa đường
gãy gánh!
Duy có điều, lão già vẫn giữ thói quen ăn chay trường cho đến cuối đời.
Hồi
nhỏ, trước nhà có hàng tre trúc toả bóng mát quanh năm. Mỗi lần đi bán
ngang đây quãng giờ ngọ. Lão dừng xe, dỡ gói cơm lá chuối, ngồi xếp
bằng miệng lẩm bẩm cầu kinh. Bữa cơm chốn thiền môn dang dỡ của lão
trông thiệt buồn lòng. Gạo đỏ cứng còng queo, vài trái dưa chuột đèo đọt
luộc, ít muối mè. Nhìn thấy ông lão ăn, con nít như mình thèm nhỏ
giãi. Phải giờ cơm, bưng tô ra ngồi kế bên, khi thì lão sớt cho miếng
chao, ít trái luộc. Thuở ấy miếng ăn cứ mà nhớ đời hoài!
Những tưởng sư xử cái nguồn gốc gây ra phiền não là chấm dứt phiền não!?
Chẳng
những nỗi vọng thèm khát đàn bà trong lão không hề giảm đi mà có phần
biến thái qua trạng thái khác còn kinh khủng hơn. Gặp người nào lẳng lơ
là lão cứ thò tay bóp vú chẳng ngại ngùng. Có điều vì cái của nợ ấy
chẳng còn, nên nỗi thèm khát đàn bà của lão cứ ứ nghẹn trong ánh mắt và
hành xử qua thói quen sàm sỡ!
Nghĩ về câu chuyện làng hồi ấy mới
thấy cái liêm sĩ của con người vẫn vọng về trong cách sống. Dầu lão ấy
không dứt được nghiệp quyến rũ đàn bà nhưng ít ra lão còn liêm sĩ xử
cái làm lão thoả mãn., cái gây cho lão bao phiền não ưu tư!
Tiếc
thay, cái muốn trong trí não ấy còn đang sống! Cho dù lão có cắt con cu
ấy nhiều lần thì chuyện đàn bà cứ vẫn sống khoẻ như ngày nào!
Kỳ
lạ thay, kẻ vô liêm sĩ thời nay trong chốn tu thiền đạo đức tiền nhân
thay vì hành động trưởng thượng như lão già be he bán quẹt đá lửa, nay
ra lệnh giết đàn bà.
Loáng thoáng đâu đó trong lịch sử, cũng đã
hơn một lần cho thấy tay tiền nhân đạo đức ấy cũng đã giết đàn bà để
bảo toàn danh dự cho sự trinh tiết của gã khi còn là CON NGƯỜI!
Diệt
đối tượng là động cơ, nguyên nhân gây ra phiền não, thay vì diệt ý
niệm dục thức dậy trong trí não của lão thầy tu khốn kiếp là chuyện nên
làm? Quyền lực nằm trong bàn tay đầy máu, cái ngu biến thành cái ác
luôn đồng hiện mãi mãi, phi thời gian.
Tấn trò đời thô bỉ ấy như
là minh chứng cho sự liêm khiết? Rằng thoả mãn nhục dục bằng đàn bà,
giết đàn bà để quay về nẻo thiện. Phải chăng là tấm gương sáng được
nhóm công cụ quyền lực nhiệt tình học tập để thành chánh quả!?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét